Đây là năm thứ 14 của Hội nghị thượng đỉnh đổi mới y tế Cleveland (CCMIS), được xem là hội nghị lâu đời nhất và quy mô lớn nhất trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. Đề tài chính trong hội nghị này là điểm danh những đột phá y học tiến bộ nhất trong năm 2017 do các chuyên gia của CCMIS đưa ra.
Sử dụng hệ gene (microbiome) trong phòng, chẩn đoán và điều trị bệnh
Các vi khuẩn trong cơ thể của chúng ta và các hóa chất khi chúng phát ra đã tác động với thực phẩm, thuốc uống mà chúng ta sử dụng và những căn bệnh sẽ hình thành và tiến triển. Các công ty công nghệ sinh học thường chú trọng vào thị trường di truyền học và họ đang chú tâm đến hệ gene (Microbiome) trong việc phát triển những cách thức chẩn đoán bệnh mới, những dạng liệu pháp mới và các sản phẩm lợi khuẩn (probiotic) nhằm phòng ngừa sự bất cân bằng gây nguy hiểm của vi khuẩn trong cơ thể con người. Với sự gia tăng nhiên cứu và phát triển của Sáng kiến hệ gene quốc gia (NMI), các chuyên gia tin rằng năm 2018 sẽ là năm mà hệ gene trở thành một phòng tuyến hấp dẫn và hứa hẹn nhất của ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe.
Thuốc tiểu đường làm giảm bệnh tim mạch và tử vong
Một nửa trong số nhóm bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 sẽ chết do những biến chứng nguy hiểm từ bệnh tim mạch. Với những ai đang ở tuổi 65 mà mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 thì tỷ lệ cược sinh mạng họ lên đến 70%. Vào năm 2016, có 2 loại thuốc mới đã giảm đáng kể tỉ lệ tử vong do bệnh tiểu đường: thuốc Empagliflozin đã thay đổi bệnh tim mạch bằng cách tác động với thận, trong khi đó thuốc liraglutide đã có những tác động toàn diện đến nhiều cơ quan nội tạng khác. Dựa trên những kết quả nghiên cứu khả quan này, các chuyên gia dự đoán rằng năm 2018 sẽ đánh dấu cho một sự thay đổi hoàn toàn các loại thuốc được kê toa cho bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường, cũng như một làn sóng nghiên cứu vào thuốc trị bệnh tiểu đường tuýp 2 và các căn bệnh của nó.
Sinh thiết lỏng để tìm ADN khối u tuần hoàn
Những xét nghiệm về một thứ được gọi là “sinh thiết lỏng” đã khám phá ra những dấu hiệu của một loại ADN hay một dạng khối u tuần hoàn phi tế bào ADN (ctADN), khi khối u đi vào trong mạch máu. Loại ctADN này có sự phong phú gấp 100 lần trong máu hơn là trong các tế bào khối u. Mặc dù các nghiên cứu vẫn đang được tiến hành, doanh số hàng năm của xét nghiệm điều trị ung thư này được dự báo sẽ đạt 10 tỷ USD. Đã có vài công ty phát triển ra những bộ dụng cụ xét nghiệm tung ra bán trên thị trường trong năm 2016. Sinh thiết lỏng được ca ngợi là “công nghệ tiên phong” của Sáng kiến Moonshot ung thư (CMI) liên bang. Các chuyên gia tin rằng chỉ còn là vấn đề thời gian về sự chẩn đoán và điều trị ung thư khi nó được đưa vào kế hoạch khám tổng quát hàng năm.
Ketamine cho điều trị trầm cảm kháng trị liệu
1/3 bệnh nhân Mỹ mắc chứng trầm cảm, các tiêu chuẩn thuốc men dường như không đủ. Có gần 43.000 vụ tự tử xảy ra tại Mỹ mỗi năm, do đó phát sinh nhu cầu cần được điều trị hiệu quả hơn. Năm 2013, biệt dược Ketamine, một loại thuốc thường dùng để gây mê, đã được nghiên cứu về khả năng định vị mục tiêu và ức chế hoạt động của các thụ thể N-methyl-D-aspartate (NMDA) của các tế bào thần kinh. Kết quả vượt xa mọi mong đợi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 70% các bệnh nhân bị mắc chứng trầm cảm kháng trị liệu đã nhìn thấy sự cải thiện đáng kể những triệu chứng chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau khi dùng Ketamine. Lần đầu tiên, đã có một cách điều trị nhanh cho những người mắc chứng trầm cảm nghiêm trọng. Các nghiên cứu đã thúc giục FDA nhanh cấp phép cho những loại thuốc mới nhằm can thiệp vào thụ thể NMDA. Một số thuốc tương tự như Esketamine đã nhận được sự chỉ định thần tốc của FDA, và chúng đang có sẵn cho bệnh nhân.
Thực tại ảo 3D và thực tế hỗ trợ cho phẫu thuật
Các bác sĩ phẫu thuật thường lệ thuộc vào kính hiển vi hoặc các hệ thống camera khác để mổ. Tuy nhiên, họ chủ yếu phụ thuộc vào đôi mắt của mình và tự hiểu về các vấn đề để thực thi việc mổ được chính xác nhất: đầu cúi xuống, tầm nhìn ngoại vi bị hạn chế, các cơ lưng và cổ bị giãn ra.
Năm 2015, hai trong số những lĩnh vực phẫu thuật phức tạp nhất là phẫu thuật thần kinh và vi phẫu thuật võng mạc, đã bắt đầu được thử nghiệm bằng công nghệ giúp cho các bác sĩ phẫu thuật được giữ thẳng đầu trong khi họ đang chìm vào một dạng hình ảnh được phân giải cao: hình ảnh thực tế 3-D về một vật cần mổ.
Những hệ thống lập thể dạng này cũng dùng dữ liệu để tạo ra những khuôn mẫu trực quan dùng cho bác sĩ phẫu thuật nhằm bảo đảm nhiệm vụ được chính xác. Những bác sĩ đang áp dụng công nghệ hình ảnh này nói rằng họ cảm thấy rất thoải mái và thông tin thực tế đã cho phép các bác sĩ phẫu thuật được mổ hiệu quả hơn. Vài bệnh viện đang ứng dụng công nghệ thực tế tăng cường này.
Xét nghiệm HPV tự kiểm tra
Phần lớn quan hệ tình dục ở phụ nữ đều có liên hệ với con virus gây u nhú (HPV) là căn nguyên gây bệnh sùi mào gà. Những chủng HPV là 99% căn nguyên gây nên bệnh ung thư cổ tử cung. Mặc dù có nhiều tiến bộ trong việc phòng ngừa và điều trị HPV, những lợi ích này chỉ giới hạn trong một nhóm nhỏ, là những phụ nữ được chủng ngừa và tiếp cận các xét nghiệm HPV. Nhưng để mở rộng hướng tiếp cận cho nhiều bệnh nhân khác, các nhà khoa học đã phát triển ra bộ dụng cụ xét nghiệm HPV tự kiểm tra bao gồm 1 cái ống xét nghiệm, 1 miếng gạc và một hộp thư. Phụ nữ tự xét nghiệm theo cách riêng của họ, một mẫu được gửi trở lại phòng thí nghiệm và được cảnh báo với các chủng HPV nguy hiểm.
Stent hấp thụ sinh học
Hàng năm, khoảng 600.000 người đặt một cái stent bằng kim loại ngay trong ngực của họ dùng để điều trị tắc nghẽn động mạch vành. Hầu hết thì những cái stent được giữ vĩnh viễn trong lồng ngực sau khi ca phẫu thuật hoàn tất. Thế nhưng chúng lại gây khó khăn cho những đợt phẫu thuật trong tương lai hay có thể gây nên những dạng biến chứng khác, như máu đóng cục. Nhưng nếu không có những cái stent thì tình hình sẽ như thế nào? Tháng 7 năm 2017, cái stent hấp thụ sinh học đầu tiên đã được phê chuẩn hoạt động tại Mỹ. Nó làm hoàn toàn từ Polymer nên có thể hòa tan tự nhiên, cái stent này sẽ nở rộng trong động mạch trong khoảng thời gian 2 năm trước khi nó thẩm thấu vào trong cơ thể tương tự như một vết thương tự động liền mí. Các chuyên gia tin rằng tiềm năng thị trường của loại stent hấp thụ sinh học sẽ đạt khoảng 2 tỷ USD và nó sẽ xuất hiện đại trà trên toàn thế giới trong vòng 6 năm tới.