Một tác phẩm lãng mạn được hình thành ngay giai đoạn khói lửa ác liệt, khiến công chúng không thể không liên tưởng đến tình yêu nồng nàn và si mê của tác giả phút giây “đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ”.
1.
Vốn quê gốc Sóc Sơn – Hà Nội, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý sinh ra và lớn lên tại Vinh vì hai cụ thân sinh chuyển vào công tác ở Nhà máy xe lửa Trường Thi. Dân ca Nghệ - Tĩnh thấm đẫm tâm hồn Nguyễn Văn Tý và trôi chảy mượt mà trong từng ca khúc của ông. Trước khi trở thành nhạc sĩ, Nguyễn Văn Tý tham gia văn nghệ với tư cách kịch sĩ kiêm ca sĩ.
Cuộc hôn nhân đầu tiên của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý chỉ kéo dài hơn một năm. Người phụ nữ bán muối ở bến cảng Hộ Độ có tên Mai Thị Cúc đám cưới với chàng trai hào hoa Nguyễn Văn Tý vào đầu năm 1946.
Khi đứa con gái đầu lòng Nguyễn Thị Như Mỹ vừa tròn 3 tháng tuổi, thì bà Mai Thị Cúc qua đời vì bệnh tim lúc cả nhà sơ tán lên Chợ Vực. Ân nghĩa phu thê ngắn ngủi ấy, nửa thế kỷ sau được nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý hoài niệm trong ca khúc “Thăm biển Cửa Lò”.
Cuộc hôn nhân thứ hai của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý lâu bền hơn và lưu lại rất nhiều dấu vết trong sự nghiệp âm nhạc của ông. Người phụ nữ ấy là Bạch Lê – em gái của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Khi cùng sinh hoạt tại Đoàn Văn công Liên khu 4, bà Bạch Lê cũng đã trải qua một đời chồng và có bốn đứa con.
Nhan sắc mặn mà và tinh thần đồng điệu đã kết nối họ với nhau. Năm 1953, đám cưới Nguyễn Văn Tý – Bạch Lê được tổ chức ở Nam Đàn, do nhà thơ Lưu Trọng Lư làm chủ hôn. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý rất tự hào kể lại rằng, đó là đám cưới duy nhất có chiêu đãi tiệc mặn trong hoàn cảnh khó khăn lúc bấy giờ. Lý do, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương nhờ người quen nuôi sẵn một con dê ở Thanh Chương để mừng em gái tái giá.
Đóng góp thứ nhất của bà Bạch Lê vào sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là ca khúc “Vượt trùng dương”. Khi hai người chở nhau bằng xe đạp đi công tác, thì ý tưởng “Đây con thuyền vượt trùng dương…” thoáng hiện trong lòng nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý. Cứ một đoạn đường lại thêm một câu hát, xe đạp lại dừng bên vệ cỏ để chàng hí hoáy chép nhạc và nàng bồi hồi hát theo “xa xa tiếng cười bao người chờ đón mời, vui trong nắng vàng ai về rộn xóm làng…”.
Những ngày luyến ái tươi đẹp với bà Bạch Lê được nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý tường thuật đầy chất ngôn tình: “Ngày nào giận nhau, thì đêm tôi thường bỏ ra rừng vắng, tìm một gốc cây ngồi với ý định chờ hổ đến ăn thịt mình. Khi có người phát hiện không thấy tôi, cả đoàn vội đi tìm. Mỗi người một đèn pin sáng loáng cả vùng, lùng sục khắp nẻo. Chỉ có Bạch Lê là tìm ra trước, vì biết chỗ tôi hay ngồi. Khi thấy tôi, Bạch Lê chỉ đưa tay vuốt mái tóc ướt đẫm sương khuya của tôi, thì tôi trở thành người ngoan ngoãn ngay. Để ghi lại kỷ niệm này, năm 1998, tôi đã viết bài “Sương khuya”!”.
Ngoài ca khúc “Sương khuya”, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý còn có hai bài hát viết tặng hiền thê Bạch Lê là “Con sáo sang sông” và “Là tình yêu mãi mãi”. Tuy nhiên, mối duyên trăm năm giữa Nguyễn Văn Tý và Bạch Lê được hun đúc và thăng hoa rõ ràng nhất ở ca khúc “Mẹ yêu con” sáng tác năm 1956 lấy cảm hứng từ đứa con gái Nguyễn Thị Thái Linh của họ: “Mẹ thương con có hay chăng, thương từ khi thai nghén trong lòng, mấy nắng sớm chiều mưa ròng… Miệng con chúm chím xinh xinh, như đài hoa đang hé trên cành, khát nắng mới và sương lành…”
2.
Khai thác chất liệu dân ca nhuần nhuyễn, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý có khả năng chạm vào mọi đề tài của cuộc sống, từ chăn nuôi đến thủy lợi, từ nông nghiệp đến công nghiệp, từ giáo dục đến ngân hàng, từ miền núi Tây Bắc đến đồng bằng Nam Bộ mà có thể liệt kê ra những ca khúc như “Mùa hoa nở”, “Pha màu luống cày”, “Người đi xây hồ Kẻ Gỗ”, “Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa”, “Cô nuôi dạy trẻ”, “Em đi làm tín dụng”, “Tiếng hát bản Mèo”, “Dáng đứng Bến Tre”… Phía sau mỗi bài hát của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đều có một câu chuyện. Tuy nhiên, điều mà nhiều người tò mò nhất lại tập trung vào ca khúc “Dư âm” lừng lẫy.
Trước năm 1950, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý chỉ có mỗi ca khúc “Ai xây chiến lũy” viết lúc ông 23 tuổi. Năm 1957, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý mới chính thức được đào tạo về lĩnh vực sáng tác âm nhạc với người thầy Triều Tiên – Mao Vĩnh Nhất. Nghĩa là, ca khúc “Dư âm” được viết không phải bằng kỹ thuật, mà bằng những sợi tơ mỏng manh ngân nga từ cõi hồn Nguyễn Văn Tý.
Bóng hồng hiển lộ trong ca khúc “Dư âm” là ai? Đó là một cô gái 16 tuổi ở một làng ven biển Quỳnh Lưu, mà theo nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý tự thú thì “chưa một lời tỏ tình, mới nhìn nhau qua đôi mắt. Thế nhưng, đôi mắt của cô lại là đôi mắt biết nói, đã nói với tôi những điều sâu kín nhất, làm tôi bàng hoàng rung động”.
Nỗi tương tư âm thầm ấy, đã theo Nguyễn Văn Tý vào chiến khu: “Một đêm, đúng vào lúc vừa buông màn nằm xuống, thì trong tôi bỗng trỗi dậy một cái gì tràn đầy thương nhớ, về một mối tình son trẻ của tôi vừa tan vỡ cách đó không lâu. Ban đầu thì hình như chỉ có hình ảnh và ý nghĩa chập chờn trong nỗi nhớ. Nhưng kế sau đó, sao lại nghe như có những âm vang, rồi lại có cả ít nhiều tiếng hát. Một câu hát rất lạ, trong đời tôi chưa hề quen biết: Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn… Kinh nghiệm đối với tôi, khi đã có hiện tượng như thế, thì phải làm sao, thật nhanh chóng lập tức ghi ngay. Nếu không, chỉ vài giây thôi, có thể tôi không còn nhớ nữa…”.
Và kết quả, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã lần mò xuống bếp, tìm ngọn đèn, để viết ca khúc “Dư âm” trên một cái nong.
Sau khi công diễn lần đầu, ca khúc “Dư âm” đã bay xa, đưa tên tuổi Nguyễn Văn Tý lên một đẳng cấp khác và cũng mang cho ông không ít phiền phức vì những mơ mộng không đúng thời điểm.
Người con gái được thi vị hóa “em như lầu vắng, anh như ánh trăng” có biết mình đã bước vào một trong những bản tình ca kinh điển của nền tân nhạc Việt Nam không? Hoàn toàn không, vì năm 1957 nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã gặp lại nhân vật nữ của “Dư âm” trong một hoàn cảnh hết sức trớ trêu:
“Một chiều khi vừa đến một quả đồi thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, thì mây đen phủ đầy trời, rồi cơn giông chuẩn bị ập tới. Tôi vội vàng chạy vào cổng gác một doanh trại bộ đội, xuất trình giấy tờ xin ở lại một đêm, vì tôi là nhạc sĩ đang trên đường đi nghiên cứu dân ca. Vừa đi vào tới sân, thì tôi gặp người xưa khiến tôi đã làm nên bài “Dư âm”. Cô bây giờ đã lớn, và rất chững chạc trong bộ quân phục. Cô ngờ ngợ nhìn tôi, vì xa nhau đã ngót 10 năm rồi. Còn tôi thì nhận ra cô ngay, nên hấp tấp chạy ngược ra cổng gác, xin lại giấy tờ rồi đi thẳng. Tại sao vậy, vì tôi sợ người ta biết đó là người đẹp trong “Dư âm”, người ta sẽ nghĩ vì thế mà xin ở lại một đêm… Không ngờ cô ấy lại hiểu tôi căm thù cô ấy, không muốn nhìn mặt cô ấy nữa… Dẫu sao thì tôi vẫn yêu, nhưng tình yêu trong tôi chỉ tôi biết!”.
3.
Giá trị nghệ thuật của “Dư âm” thì lấp lánh, còn câu chuyện của “Dư âm” thì bẽ bàng. Năm 1988, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý ở tuổi 64 tiếp tục có một mối tình tương tự, mà ông gọi là “Dư âm 2”. Đó là một nữ tiến sĩ có đôi mắt long lanh “lúc thì như một ánh sao trời, lúc thì như một giọt sương rơi” khiến nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý “lại bàng hoàng nhớ về đôi mắt, cũng như thế, ngày xưa đã để lại một “Dư âm”. Thế là tôi làm bài hát “Một ánh sao trời”!”.
Làm xong, tôi đã trân trọng đề tặng cô. Ban đầu cô tiếp nhận, nhưng sau hình như cô hiểu ra điều gì, bèn trả lại cho tôi tất cả kỷ niệm đã trao, từ cuốn sách “Nhạc và đời” đến tấm hình lưu niệm, rồi xa lánh tôi…”. Cớ gì ra nông nỗi kia? Đoạn cuối bài hát “Một ánh sao trời” viết rằng “để Dư âm vang mãi trong tiếng em cười, để ta thương nhớ một đời riêng tôi”, đã làm cho nữ tiến sĩ tự ái vì mình chỉ giống như phiên bản của người đẹp dạo nào “hẹn em từ muôn kiếp trước, nhớ em mấy thuở ban đầu”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý cứ trách bản thân ngây dại xung quanh “Một ánh sao trời”, nhưng biết làm sao được, khi những hư thực của ca khúc “Dư âm” vẫn ám ảnh khôn nguôi “anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn, em để cung đàn đưa anh về đâu…”.