Nhà khoa bảng mẫn cán được vua Lê ban chữ 'Khả'

GD&TĐ - Mẫn cán nên được triều đình khen là người làm khá, Nguyễn Văn Trạc còn được vua Lê Thần Tông ban tặng chữ 'Khả', đổi thành Nguyễn Khả Trạc.

Nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc tại Mai Dịch (Cầu Giấy, Hà Nội).
Nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc tại Mai Dịch (Cầu Giấy, Hà Nội).

Thi lần đầu đã đỗ

Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc (1598 - 1672), tên thật là Nguyễn Văn Trạc, người xóm Thị, làng Mai Dịch, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây (nay thuộc phường Mai Dịch, Cầu Giấy - Hà Nội). Theo tư liệu gia phả, họ Nguyễn Khả hình thành và phát triển trên sự khai lập xã Mai Dịch từ cuối thế kỷ 15, trong chính sách đồn điền thời Hậu Lê của vua Lê Thánh Tông.

Các tư liệu đại chí, sử làng cho biết, dòng họ Nguyễn Khả có tiếng tăm nhất làng Mai Dịch xưa. Tương truyền, dòng họ có huyệt mộ quý phát về đường khoa bảng. Thời Hậu Lê và thời Nguyễn, tuy dân họ chưa đông nhưng đã có hai vị đỗ Tiến sĩ, 13 vị đỗ Hương cống thời Lê, hoặc Cử nhân thời Nguyễn, 15 vị đỗ Sinh đồ hay Tú tài nho học.

Gia phả dòng họ Nguyễn Khả có ghi chép rằng, trước ngày sinh Nguyễn Văn Trạc, thân mẫu ông nằm mơ thấy hàng tổng đến giúp đỡ đắp nền nhà nên khi sinh ra đặt tên húy là Nền, còn có tên là Cù, tự Văn Trạc.

Từ nhỏ, Nguyễn Văn Trạc đã tỏ ra là một cậu bé thông minh, sớm hiểu biết và học rất giỏi, lại được cha kèm cặp dạy dỗ nên năm 24 tuổi ông đã đỗ Quốc Tử Giám, giám sinh. Sức học của ông nổi tiếng đến nỗi, khi đang học ở Quốc Tử Giám đã được điều vào cung thuyết giảng.

nguyen-kha-trac-4.png
Thác bản văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1631) - khoa Nguyễn Khả Trạc đỗ Tiến sĩ.

Năm Đức Long thứ 3 (1631), triều đình mở khoa thi, Nguyễn Văn Trạc lúc đó 33 tuổi lần đầu tham gia ứng thí, đỗ ngay Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa Tân Mùi niên hiệu Đức Long thứ 3 (1631), do Bạt quận công Thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận, Hàn lâm viện Hiệu thảo Trịnh Cao Đệ vâng sắc soạn, Trung thư giám Hoa văn học sinh Nguyễn Diễn vâng sắc viết chữ (chân), Trung thư giám Hoa văn học sinh Đỗ Công Vị vâng sắc viết chữ triện, có đoạn:

“Năm Tân Mùi, ban chiếu thư truyền cho các phủ huyện trong nước tiến cử sĩ tử, bủa mẻ lưới lớn thu lấy anh tài, chọn được 5 người thuộc hạng xuất sắc. Ngày hôm sau, Hoàng thượng ngự ở hiên điện, ra bài thi hỏi về đạo trị nước của các đế vương… đặc cách xem xét…

Kẻ sĩ may mắn được khắc tên trên bia đá này cần phải nêu cao đức liêm khiết, cần mẫn; bịt lấp ngõ tham lam, ganh ghét; lấy lòng trung thờ vua, đem ơn huệ đến cho dân; ngồi ở triều đình thì giữ công tâm, khiến lũ gian hùng rụt cổ; ra ngoài thì thi hành lương chính để trăm họ thỏa lòng. Được như thế trên không phụ ơn triều đình ưu ái, dưới không phụ hoài bão giúp vua lợi dân.

Công lao lừng lẫy một thời, tiếng tăm lưu truyền hậu thế, khiến người đời sau xem bia đá này sẽ chỉ tay vào tên mà nói: Người này là cây trụ đá chống trời, người kia đúng là mai rùa cỏ thi. Nếu không được như vậy, người ta sẽ nhìn vào tên mà bảo rằng: Người này là kẻ cầm quyền sâu mọt hại nước, người kia là kẻ tàn ác hại người. Công luận nghiêm xét, muôn thuở chẳng mòn, há chẳng nên thận trọng sao?”.

Sau khi thi đỗ, ông được triều đình tuyển bổ làm quan chức Cần chính sự lang Hải Dương - Đạo giám ngự sử. Hai năm sau, tức năm Đức Long thứ 6 (1634), Nguyễn Văn Trạc được thăng chức Mậu lâm lang đẳng xứ Nghệ An, Thanh hình Hiến sát sứ ty hiến sát. Sách “Từ Liêm đăng khoa lục” cho biết, khi ở Nghệ An, ông đã thẳng tay trừng trị bọn tuần nha ở Biện Sơn làm nhiều điều hà nhũng nên được triều đình và phủ chúa hết lòng khen ngợi.

Làm việc khá, được vua ban chữ “Khả”

nguyen-kha-trac-3.jpg
Một trong các sắc phong tại nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc.

Năm Dương Hòa thứ 5 (1639), Nguyễn Văn Trạc được thăng Mậu lâm lang - Đề hình hiến sát Ngự sử. Sau đó, ông được phong Hoằng tín đại phu. Năm Dương Hòa thứ 8 lại được phong Hoằng tín đại phu Thái bộc tự khanh (1642). Dự bồi tụng phụng sai, bồi thị tham nghị quân vụ cấp đốc thị, có công được triều thần bàn luận.

Phúc Thái năm thứ 3 (1645), theo sự tiến cử của Tả tướng Thái úy Tây quốc công Trịnh Tạc, vua Lê Chân Tông đã phong cho ông làm Hộ bộ Hữu thị lang, tước Diễn Thọ bá. Năm Nhâm Thìn niên hiệu Khánh Đức (1652) được cử làm giám thị, khoa thi Hội này đã diễn ra nghiêm túc và đạt kết quả tốt.

Thịnh Đức nguyên niên (1653), Nguyễn Văn Trạc được thăng từ Hộ bộ Hữu thị lang lên Lại bộ Tả thị lang vào làm việc trong phủ chúa. Thời gian này ông còn được cử làm Tham nghị quân vụ cùng với Thái Bảo Khê quận công Trịnh Trương đi đánh quân Nguyễn ở Đàng Trong. Lần Nam chinh này, ông đã có mưu kế hay khiến cho quân Bắc tránh khỏi những thiệt hại, tổn thất.

Năm 1656, được cử giữ chức Binh bộ tả thị lang, Bồi tụng làm việc trong chính phủ. Trong năm này Nguyễn Văn Trạc đến thăm chùa Láng - một thắng cảnh nổi tiếng ở sát kinh thành Thăng Long lúc bấy giờ. Vâng theo ý chúa, ông đã làm bài văn bia “Tạo lệ chùa Chiêu Thiền”. Bài văn hay này đã dịch và giới thiệu trong “Tuyển tập văn bia Hà Nội”.

Năm Thịnh Đức thứ 5 (1657), ông được phong tước hầu, đạo sắc phong của triều đình ban ngày mùng 10 tháng 10 năm Thịnh Đức thứ 5 ghi rõ: “Sắc cho Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Lại bộ Tả thị lang, Diễn Thọ bá trụ quốc trung trật làm trong phủ chúa có nhiều tài cán, tham gia trì hoạch cơ mưu, có công giữ cho quốc gia được yên, lại có ngôn luận giỏi, được triều đình bình xét thăng làm Ngự sử đài, tước Hầu trụ quốc trung trật”.

Do làm việc mẫn cán, sáng tạo nên triều đình và phủ chúa khen ông là người làm khá, được vua Lê Thần Tông ban tặng chữ “Khả”, do vậy, tên gọi Nguyễn Văn Trạc được đổi thành Nguyễn Khả Trạc từ thời gian này.

Vì tuổi già sức yếu, năm 1665, Nguyễn Khả Trạc xin về trí sĩ, triều đình và phủ chúa xét thấy ông từ khi đỗ Tiến sĩ, trải nhậm các chức ngoài trấn trong kinh, lại dự Bồi tụng tham nghị sự vụ mọi công việc đều hoàn thành nên gia thăng Công bộ Thượng thư Liêm quận công trụ quốc thượng trật. Khi ông về hưu, các quan đồng liêu, đồng triều từ tể tướng đến các vị thượng thư, thị lang các bộ, ngự sử hàn lâm viện… mở tiệc tiễn, nhà vua cấp ruộng cho ông ở trạm Mai Dịch để dưỡng già.

Về nghỉ tại Mai Dịch, Nguyễn Khả Trạc vui với cảnh làm vườn, đọc sách, dạy học. Đối với dân làng ông có rất nhiều công đức trong việc mở mang giáo hóa, phát triển quê hương. Một lần về quê bà vợ hai là con gái quan phụ quốc Thượng tướng quân Vân quận công ở Vĩnh Lộc, ông đã xây dựng cho hai làng Vĩnh Lộc và Hữu Bằng một khu chợ và làm nhiều việc công đức khác. Dân làng Hữu Bằng đã dựng bia ghi lại công đức và hai làng đều bầu ông làm hậu thần phối thờ ở đình làng.

Trước khi mất, Nguyễn Khả Trạc đã làm đôi câu đối yêu cầu con cháu khắc vào gỗ để truyền mãi về sau: Canh độc truyền gia vô biệt sảo/ Kiệm cần tu kỷ hữu dư năng (Sản xuất và đọc sách cần lưu truyền trong nhà không có gì bằng/ Chăm chỉ, tiết kiệm và chăm sửa mình thì mới có thể khá được).

Được hai làng tôn làm hậu thần

nguyen-kha-trac-2.jpg
Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc được dân làng tôn làm hậu thần.

Ngày mùng 9 tháng Tám năm Dương Đức thứ 2 (1672), Liêm quận công Nguyễn Khả Trạc mất, thọ 75 tuổi. Được tin, triều đình vô cùng thương tiếc, vua Lê ban sắc gia tặng Hộ bộ Thượng thư.

Đạo sắc viết: “Sắc cho Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, bồi tụng Công bộ Thượng thư Liêm quận công, trí sĩ thượng trụ quốc thượng giao Nguyễn Khả Trạc, làm bồi thị đã lâu, làm nhiều chức trong phủ hoài trấn, nhiều lần lĩnh trách nhiệm dẹp trừ giặc có công lao. Nay nghe tin (qua đời) lòng thương xót, từng ban sắc. Nay lại tặng Hộ bộ Thượng thư, tước Liêm quận công. Vậy ban sắc, ngày 27 tháng 11 năm Dương Đức thứ 2 (1672)”.

Tưởng nhớ đến công đức của ông, dân làng Mai Dịch đã tôn làm hậu thần phối thờ cùng đức Thượng đẳng Lý Phật Tử. Trong ngôn ngữ giao tiếp của làng cấm dùng chữ “Trạc” để kiêng húy của vị hậu thần.

Nhà thờ Nguyễn Khả Trạc hiện tọa lạc tại xóm Thị, được xây dựng từ năm 1849, hướng chính Tây với địa thế dựa lưng vào gờ cao của bờ Đông sông Thiên Phù xưa, phía trước là bãi cao có Quán làng nơi thờ tướng quân Lý Phục Man, một vị tướng tài thời Lý Nam Đế.

Di tích nổi bật bởi lối kiến trúc cổ kính được xây dựng theo nguyên mẫu dinh cơ của các vị vua quan ngày xưa, kết cấu hình chữ “Công” gồm Tiền tế, Phương đình và Hậu cung. Các kiến trúc này được xây dựng theo hướng Tây, trông ra khu vườn. Trước đây, nhà thờ có khuôn viên rộng lớn, song trải qua những biến động lịch sử, nhà thờ dần bị thu hẹp.

Nhà thờ Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc không chỉ là công trình của riêng dòng họ Nguyễn Khả, mà còn là di tích đã được Nhà nước xếp hạng, công nhận là Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 188-QĐ/BT, 13/3/1995.

Hiện nay tại di tích còn lưu giữ bộ di vật văn hóa có giá trị lịch sử và nghệ thuật. Trong đó, 14 đạo sắc phong thần của các triều đại ban cho Nguyễn Khả Trạc khi ông còn đương chức tại triều và cho các vị phụ mẫu vì đã có công sinh được người tài cho đất nước.

Về giá trị kiến trúc nghệ thuật, nhà thờ Nguyễn Khả Trạc có quy hoạch hợp lý, các nếp nhà được xây dựng cân đối tạo ra sự hài hòa. Đây là một kiến trúc đẹp, tỷ lệ cân đối và có thể sánh ngang với nhiều di tích ở Đồng bằng châu thổ sông Hồng.

Phần đóng góp không nhỏ để nâng cao giá trị di tích là hệ thống bia đá gồm 8 tấm, ghi việc phụng thờ hậu thần và những quy định của dòng họ trong việc tế lễ, đất đai ở các xứ đồng... Đặc biệt, tấm bia “Nguyễn tộc từ đường” cho biết nhà thờ được xây dựng ngay từ khi danh thần Nguyễn Khả Trạc qua đời.

Theo dòng thời gian, quy mô của di tích cũng được mở rộng và hoàn thiện dần. Các thế hệ kế tiếp sau luôn quan tâm sửa chữa, bảo vệ, giữ gìn. Hàng năm vào ngày giỗ tổ, con cháu trong dòng họ lại tề tựu đông đủ để tưởng niệm, ôn lại công đức của danh nhân Nguyễn Khả Trạc.

Đến với di tích nhà thờ họ Nguyễn Khả Trạc, không chỉ có dịp tìm hiểu, nghiên cứu về danh nhân văn hóa Nguyễn Khả Trạc ở thế kỷ 17, mà còn được biết thêm về một dòng họ có truyền thống yêu nước, hiếu học nổi danh trong lịch sử đất Thăng Long - Hà Nội.

Theo sách “Hà Nội danh thắng và di tích”, ngoài xuất thân từ khoa bảng, Nguyễn Khả Trạc còn là một nhà văn, nhà thơ. Trước tác của ông khá nhiều song ngày nay chỉ còn lưu lại một số sáng tác như văn bia, một số bài thơ lưu trữ trong dòng họ. Số tác phẩm dù ít ỏi lưu lại cho đời nhưng cũng cho thấy ông là nhà văn hóa có tâm hồn trong sáng, nặng lòng yêu nước thương dân. Lời tuyên đọc “Vi thiện tối lạc” (Làm điều thiện rất vui) đã phản ánh tấm lòng nhân ái, trong sáng của Tiến sĩ Nguyễn Khả Trạc - đúng như đánh giá ngợi ca của đời sau trên tấm bia hậu thần Nguyễn tướng công.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Canada là điểm đến du học hàng đầu thế giới.

Canada giảm 45% số giấy phép du học

GD&TĐ - Trong 10 tháng đầu năm 2024, số giấy phép du học được Bộ Di trú Canada (IRCC) cấp mới đã giảm tới 45%, đạt 280 nghìn giấy phép.

ThS.BS Phạm Thành Trung chia sẻ kiến thức da liễu cho sinh viên Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Đắk Lắk. Ảnh: NVCC

Sinh viên sống 'healthy' khó không?

GD&TĐ - Gen Z - thế hệ được biết đến với sự trẻ trung và năng động nhưng nhiều người trẻ trong lứa tuổi này đang phải đối mặt với một thực trạng đáng lo.

Giống dừa nước được bảo tồn bằng công nghệ ADN.

Bảo tồn gene cây dừa nước

GD&TĐ - Cây dừa nước đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và hệ sinh thái, nhóm các nhà khoa học đã lên kế hoạch bảo tồn gene loài này.