Người vác tù và cho học sinh

GD&TĐ - “Tôi cảm thấy đau lòng khi vẫn còn thấy các con em học sinh đồng bào dân tộc không biết đọc, không biết viết và không biết tính toán.Tình trạng có học sinh ngồi nhầm lớp, học sinh THCS bỏ học, hay tình trạng có vợ, có chồng trong độ tuổi THCS còn xảy ra…Bởi vậy, xin đừng vô cảm với xã hội hiện tại, hãy coi học sinh như con đẻ của mình...”, thầy giáo Trần Trực - Hiệu trưởng trường PTDTBT tiểu học Tr’hy (xã Tr’hy, huyện biên giới Tây Giang) - người có 32 năm gắn bó với sự nghiệp giáo dục miền núi tỉnh Quảng Nam tâm sự.

Người vác tù và cho học sinh

Những kỷ niệm buồn, vui với nghề

32 năm trước, đến với giáo dục huyện Hiên (nay là huyện Đông Giang và huyện Tây Giang, tỉnh Quảng Nam), thầy giáo trẻ Trần Trực mang trong mình sức trẻ, khát vọng cống hiến. Cuộc sống người dân, điều kiện học tập của con em dân bản gặp bao khó khăn chồng chất như càng tiếp thêm động lực, niềm tin cho người thầy giáo trẻ.

Nói về những kỷ niệm ngày đầu bước chân đến với huyện miền núi Hiên dạy học, thầy Trần Trực chia sẻ: Lúc ấy, đường giao thông cách trở muôn vàn, không cầu cống, phải lội qua biết bao nhiêu sông suối.

Từ xã Ba đến xã Sông Kôn, mỗi lần về quê có thể đi nhờ xe tải. Từ P’rao đến các xã khu bảy thì đi bộ cả một tuần lễ, việc về phép tranh thủ thăm người thân lại càng khó hơn. Dân cư ở rải rác. Nạn du canh du cư liên tục xảy ra, người thầy giáo phải theo dân bám bản, bám lớp. Đời sống vật chất thiếu thốn mọi bề, đời sống tinh thần không có gì, chỉ có số ít thầy cô giáo dành dụm mua được chiếc Radio nhỏ để nghe tin tức.

Báo chí đọc được thì phải qua hơn hai tháng phát hành, phim màn ảnh rộng thì họa hoằn một năm mới xem được một lần và các loại hình nghệ thuật khác là thứ xa xỉ không bao giờ biết đến.

Thầy giáo và cô giáo ở những xã xa trung tâm huyện lỵ thì bám nhân dân mà sống; thầy giáo, cô giáo ở tuyến đường giao thông huyết mạch thì bám tiêu chuẩn 13 kg lương thực trên tháng, trong đó có tháng hơn 30% màu là sắn khô hoặc bo bo.

Thực phẩm là tem phiếu. Lương mỗi tháng chỉ đủ mua một ang gạo. Thuở ấy đến dịp Tết có câu nói cửa miệng: “Chiều Ba mươi thầy giáo tháo giày đi chợ bán/Sáng mồng Một giáo chức dứt cháo đón xuân sang”.

“Cuộc sống, điều kiện đi lại trong khó khăn, nguy hiểm nên đã có những đồng nghiệp của tôi mãi mãi ra đi khi tuổi đời còn rất trẻ, còn mang trong mình lòng nhiệt huyết cống hiến với nghề. Đó là nỗi đau khi thầy Huỳnh Văn Anh (quê ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) - Phó Hiệu trưởng Trường TH Arooih bị nước lũ sông A Vương đoạn Axanh – A Dung cuốn trôi; cô giáo Nguyễn Thi Hoa (quê xã Hoà Ninh, Hòa Vang, TP Đà Nẵng) đi nhờ xe tải từ Sông Kôn về đến xã Ba, xe mất thắng lật tại thôn Éo vĩnh viễn ra đi; thầy giáo Nguyễn Văn Thảnh (quê Đại Lộc) sau chuyến về phép trên đường trở lại Trường TH Tr’hy không may bị một số người ra tay sát hại. Mới đây, thầy giáo Nguyễn Văn Phong, thầy giáo Nguyễn Quang Tuấn, cô giáo Trương Thị Nhân vĩnh viễn ra đi trong cơn lũ dữ…”, thầy Trực xúc động.

“Việc gì có ích cho học sinh thì làm”

Thầy giáo Trần Trực bày tỏ: Đến nay diện mạo giáo dục huyện biên giới Tây Giang đã đổi thay. Để đạt được những thành tích ấy là biết bao nhiêu công sức của các thế hệ đội ngũ thầy cô giáo, sự lãnh đạo cương quyết của Đảng, chính quyền và các đoàn thể địa phương.

Đồng lương của thầy giáo cô giáo có cải thiện và chắc chắn đủ sống với nghề, nếu khéo tiết kiệm có thể mua sắm các tài sản có giá trị như xe máy, làm nhà; điều mà cha anh chúng ta trước đây nằm mơ cũng không có được, xã hội đã ưu đãi rất nhiều.

Việc đi bộ chỉ còn xảy ra ở thôn Aur (xã Avương), Ariêu (xã Tr’hy), còn hầu hết các thôn còn lại trong huyện xe máy đến được. Đời sống tinh thần và vật chất không thể sánh kịp với vùng đồng bằng nhưng vẫn ổn định và đảm bảo cho công tác dạy và học.

Tuy nhiên,vẫn còn đó những khó khăn, thử thách ở phía trước đối với chính quyền địa phương, ngành GD&ĐT và tập thể đội ngũ cán bộ, giáo viên, đó là chất lượng học tập của học sinh còn quá thấp so với yêu cầu hiện tại; tình trạng học sinh ngồi nhầm lớp, học sinh trung học cơ sở đi học không chuyên cần hay bỏ học vẫn xảy ra; tình trạng có vợ, có chồng trong độ tuổi trung học cơ sở còn xảy ra phổ biến ở những năm qua.

Chính vì những trăn trở với nghề, với điều kiện học tập khó khăn của con em học sinh đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây, mà bao năm qua, thầy đã thầm lặng làm những công việc tiếp sức học sinh đến trường. Vườn rau tự tay thầy gieo trồng không chỉ cung cấp đủ cho học sinh trong trường chế biến bữa ăn bán trú quanh năm, mà còn cung cấp cho người dân địa phương.

Những quần áo, những sách vở, những suất học bổng tiếp sức đến trường được các đơn vị, tổ chức, cá nhân trao tận tay cho các em học sinh cũng được thầy âm thầm đi vận động, trợ giúp.

Mô hình lớp học phụ đạo ban đêm, tiếng kẻng học tập cũng được thầy tích cực vận động, khuyến khích giáo viên nhà trường duy trì, thực hiện trong thời gian qua, mang lại những kết quả rất tích cực.

Bởi vậy mà khi nói về người cán bộ quản lý của mình, thầy Trần Anh Tuần – Trưởng phòng GD&ĐT huyện Tây Giang không khỏi tự hào: Đã bao năm nay, cứ vào những ngày cuối tuần, thầy giáo Trần Trực cứ đều đặn trên chiếc xe máy cà tàng vượt hơn 200 cây số lên núi, xuống phố vận động các tổ chức, cá nhân chung tay giúp đỡ con em học sinh đồng bào dân tộc.

Những quần áo, những sách vở, những suất học bổng…cứ thế, đều đặn được gửi đến các em học sinh đã tiếp thêm nghị lực, ý chí cho các em đến trường học chữ. Không chỉ có tấm lòng thương yêu học sinh như những đứa con của mình, thầy còn là một người cán bộ quản lý đầy trách nhiệm, tâm huyết với nghề.

Hơn 32 năm gắn bó với giáo dục miền núi huyện Tây Giang, thầy đã có nhiều sáng kiến kinh nghiệm trong giảng dạy, quản lý áp dụng vào thực tiễn dạy học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục miền núi, giáo dục dân tộc của địa phương.

Sau hơn 32 năm dạy học, nhiều giáo viên cùng thế hệ với thầy đã lần lượt xin về vùng đồng bằng, thành thị công tác nhưng thầy vẫn “một lòng, một dạ” gắn bó với giáo dục vùng khó và luôn mang tâm niệm sẽ làm bất cứ mọi việc miễn là việc đó có ích, có lợi cho con em học sinh.

Thầy tâm sự: “Danh ngôn có nói “không có một vĩ nhân nào, một anh hùng nào trên đời này lại không qua bàn tay bế ẵm của người mẹ, thì trên trái đất này cũng không có một vĩ nhân, một anh hùng nào lại không qua bàn tay dìu dắt và sự dạy dỗ của người thầy giáo”.

Sinh thời Thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Xã hội trải qua bao nhiêu thăng trầm nhưng nghề dạy học vẫn luôn tôn vinh, kính trọng…Đó là không chỉ những lời dạy, bài học quý giá, mà còn là niềm động viên, tiếp thêm niềm tin, sức mạnh cho tôi tiếp tục cống hiến, gắn bó với con em đồng bào dân tộc nơi vùng cao biên giới này”.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ