Ngọn cờ giới tuyến

GD&TĐ - Năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, lấy vĩ tuyến 17 dọc con sông Bến Hải làm giới tuyến quân sự tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc.

Ngọn cờ giới tuyến

Theo Hiệp định, tất cả các đồn cảnh sát giới tuyến phải treo cờ hằng ngày, nhưng trên hết, còn là để “người bờ Bắc sông Bến Hải nhìn lá cờ Tổ quốc nơi tuyến đầu để mãi mãi không quên đồng bào ruột thịt của mình ở bờ Nam.

Người bờ Nam sông Bến Hải nhìn lá cờ Tổ quốc để vững lòng cùng nhân dân miền Bắc trong cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà”. Trong cuộc chiến đấu giữ cờ ấy, đã có những người thầm lặng với nhiệm vụ may cờ, vá cờ với niềm tin mãnh liệt về một ngày đoàn tụ không xa.

“Cờ còn thì nước còn”

Không khó để hỏi tìm nhà ông Nguyễn Đức Lãng (phường 5, TP Đông Hà, Quảng Trị), người đã có hơn chục năm đảm nhận nhiệm vụ nhận cờ ở Quân khu 4 trong điều kiện di chuyển hết sức ngặt nghèo, rồi sau đó là miệt mài may cờ để trong mọi hoàn cảnh, lá cờ Tổ quốc bao giờ cũng phải tung bay trên cột cờ Hiền Lương, như là biểu tượng về sức mạnh của lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Năm 18 tuổi, từ Cam Lộ - một huyện ở phía Nam sông Bến Hải, chàng thanh niên Nguyễn Đức Lãng vượt tuyến ra Bắc. Ngoài thời gian làm công nhân may cho Công ty may Nam Hồng đóng tại thị
trấn Hồ Xá (Vĩnh Linh), ông Lãng còn tham gia công tác tại địa phương.

Bốn năm sau, ông được điều về công tác tại Ban Hậu cần của Công an vũ trang Vĩnh Linh với nhiệm vụ nhận cờ Tổ quốc tại Quân khu 4 mang về treo lên trên cột cờ Hiền Lương.

“Thời điểm từ năm 1975 - 1963, tôi thường một mình ra Quân khu 4 nhận cờ về để treo. Nhưng rồi chiến tranh ngày một ác liệt, bọn địch ở bờ Nam mỗi ngày tăng cường bắn phá dữ dội ra bờ Nam; mà điều kiện giao thông hồi đó hạn chế lắm, tôi đi nhận cờ chỉ di chuyển bằng xe đạp nên để có cờ treo liên tục 24 giờ/ngày, từ nhiệm vụ nhận cờ, tôi chuyển sang nhận vải về để may cờ”.

Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng trong ký ức của người chiến sĩ công an Nguyễn Đức Lãng vẫn vẹn nguyên câu chuyện của những ngày đầu mới tập may cờ Tổ quốc:

“May cờ Tổ quốc để treo ở cột cờ đầu cầu giới tuyến là một trọng trách lớn lao. Nói thiệt là mình vừa tự hào nhưng cũng run lắm. Tôi phải ra Hà Nội trình kế hoạch, rồi về nhận vải ở Ty Thương nghiệp Vĩnh Linh.

Một lá cờ may hết 122m vải đỏ và 12m vải vàng. Do không mua được vải xoa nên hồi đó tôi phải sử dụng vải của dệt Nam Định, mỗi biên cờ phải may đến 5 - 6 đường chỉ mới hy vọng chịu nổi sức gió nên người may cờ phải tỉ mỉ trong từng đường kim mũi chỉ để vừa đảm bảo độ bền và tính thẩm mĩ. Mỗi lá cờ thời đó, khi may xong, có trọng lượng đến 12 kg”.

Sau khi tập may thành thạo, ông Lãng được đơn vị cấp cho một chiếc máy may tay Liên Xô. “Thời gian đầu, tôi phải mất đến 7 ngày
mới may xong một lá cờ, nhưng sau thì chỉ mất khoảng 5 ngày.

Cờ may xong là đưa về Hiền Lương để cho đồng đội kịp thời treo lên thay lá cờ đã bị gió đánh rách hoặc do địch bắn phá”. Theo như lời ông Lãng kể thì bình quân, mỗi năm ta treo hết 24 lá cờ trên cột cờ Hiền Lương, mùa gió Lào thì chỉ khoảng 10 – 15 ngày là phải thay cờ mới:

“Thời gian đầu, chúng tôi được giao may cờ theo khổ 6x4m, nhưng sau đó cột cờ nâng cao lên 32,5m nên kích cỡ cờ cũng phải thay đổi, ta may cờ to thành 12x8m”.

Giờ thì chiếc xe đạp đã gắn bó cùng ông Lãng trên chuyến hành trình ra Hà Nội báo cáo kế hoạch may cờ được ông bàn giao lại cho Bảo tàng Vĩ tuyến 17.

“Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của người lính, một nhiệm vụ thiêng liêng. Chiếc xe đạp tuy là vật kỷ niệm rất quý với mình nhưng nó có ý nghĩa với một giai đoạn lịch sử nhất định. 

Đó là biểu tượng của ý chí kiên cường, của khát vọng hòa bình, không khuất phục kẻ thù xâm lược” - Ông Lãng lý giải nguyên nhân hiến tặng chiếc xe đã gắn bó với một đoạn đời đặc biệt của mình.

Giai đoạn từ năm 1965 trở về sau, cứ mỗi năm hai lần, ông Lãng lại cùng đồng đội đạp xe ra Hà Nội trình báo cáo kế hoạch may cờ. “Từ Vĩnh Linh, chúng tôi phải đi bằng đường giao liên, tức là đường rừng cho đến rừng thông thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hóa thì mới đi bằng đường quốc lộ.

Cứ băng rừng, lội suối như thế; tối ở đâu thì mắc võng ngủ ở đó, mỗi ngày chỉ dừng lại nấu cơm một lần, hai bữa còn lại thì ăn cơm nắm hoặc lương khô. 

Mỗi đợt, bọn tôi thường mất một tuần cho cả đi và về, nhưng cũng có nhiều lần phải kéo dài hơn do gặp máy bay bắn phá. Có khi một ngày gặp máy bay quần thảo, ném bom cả chục lần”.

Nhắc lại về những ngày tháng ấy, giọng ông Lãng sôi nổi: “Hồi đó, nhận nhiệm vụ là cứ lên đường thôi chứ cũng không hề nghĩ đến những hiểm nguy bất trắc.

Mình cứ tâm niệm rằng cột cờ lúc nào cũng phải có cờ, vì còn cờ thì còn nước, mất cờ thì mất nước, và mọi khó khăn đều được chúng tôi vượt qua với tinh thần như thế. Có những lúc, chúng tôi chỉ kịp tấp xe đạp rồi nấp vào bụi cây tránh bom”.

Ông Nguyễn Đức Lãng – Người nhiều năm may cờ Tổ quốc để treo ở cột cờ Hiền Lương
Ông Nguyễn Đức Lãng – Người nhiều năm may cờ Tổ quốc để treo ở cột cờ Hiền Lương
 

Những người mẹ vá cờ

Trong những năm tháng đất nước tạm thời bị chia cắt, cột cờ và lá cờ ở bờ Bắc luôn cao hơn cột cờ ở bờ Nam. Năm 1962, cột cờ được gia công cao 38,6m và lá cờ rộng 134 m2; năm 1967, máy bay Mỹ phá hỏng cột cờ, lá cờ cũng bị rách, phải vá cờ.

Làng Hiền Lương lúc đấy, phần lớn người già, phụ nữ và trẻ em đều được lệnh sơ tán ra các tỉnh phía Bắc để tránh bom rơi đạn lạc. Nhưng mẹ Ngô Thị Diệm và mẹ Trần Thị Viễn – hai chị em dâu con chú con bác, cùng có chồng hy sinh từ những ngày kháng chiến chống Pháp, vẫn ở lại bám đất, bám làng.

Lúc này, lực lượng công an vũ trang cũng tạm thời rút hết, chỉ còn lại hai người làm nhiệm vụ treo cờ ở lại trong nhà của mẹ Diệm, và mẹ nhận luôn công việc vá cờ.

Mẹ Viễn giờ đã 102 tuổi, đang sống với người con trai út làm ở Đài Truyền thanh huyện Vĩnh Linh, vẫn nhớ như in những ngày tháng cần mẫn từng đường kim mũi chỉ, khẩn trương vá cờ:

“Cờ bị bắn rách bữa nào là vá bữa đấy. Lúc đầu chị em tôi vá trong nhà, nhưng rồi nhà cũng bị bom đánh sập nên phải xuống hầm để vá. Có khi 2 - 3 ngày cờ không rách nhưng cũng có khi một ngày phải vá vài lần.

Cũng không hiếm khi vừa mới treo cờ lên, bưng bát cơm chưa kịp ăn mà cờ bị địch bắn thủng là phải hạ xuống, thay cờ khác để vá gấp, kịp nếu bị bắn thủng tiếp còn có cái mà thay”.

Mẹ Diệm đã mất hơn 20 năm nay và cũng đã được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang vào năm 2007. Trong khoảng 3 năm chiến tranh ác liệt ở “chảo lửa” bên bờ sông giới tuyến ấy, mẹ Diệm và mẹ Viễn không nhớ hết mình đã vá bao nhiêu lá cờ.

“Có khi đang cặm cụi ngồi vá, địch bất ngờ thả bom, mẹ giật mình nên bị kim đâm vào tay. Mình là phụ nữ, may vá thêu thùa cũng quen, nhưng khi vá bao giờ cũng phải chú trọng ở ngôi sao năm cánh, để cờ dù có vá nhưng vẫn giữ được phần hồn của nó” - mM Viễn kể. Ngoài đảm nhận phần vá cờ, hai mẹ vẫn cùng với anh em dân quân tăng gia sản xuất, vắt cơm cho bộ đội, chăm sóc thương binh…

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ