Sau ba lần kêu thợ về khoan cây nước, cậu Ba tôi cũng bỏ cuộc với hành trình tìm nước ngọt. Năm mới dọn ra ở riêng, cậu Ba kêu người về khoan cây nước. Dân Nước Mặn kêu trời, biểu cậu ba đào tìm vàng coi bộ còn dễ hơn, cậu chẳng thèm để ý đến mớ lời của người dân Nước Mặn, cương quyết kêu thợ về khoan cây nước.
Đám thợ khoan nhìn bà con nước mặn cười hiền khô “tụi tui làm mướn, ai kêu khoan thì tui khoan”. Đường ống đâm sâu vào đất, cậu ba nhấp nhổm chờ thứ nước mát lành, ngọt lừ từ lòng đất. Ông thợ khoan sau một hồi đúc ống cũng lắc đầu nhìn cậu ba “nước mặn lắm, không xài được đâu”.
Lần thứ hai, đám thợ bớt tiền cho cậu phân nửa, khi thấy mắt cậu buồn hiu nhìn mớ đất đá ngổn ngang.
Thứ nước phun lên vẫn mặn đắng như nước mắt của mợ Ba khi cản ông chồng cứng đầu. Đôi bông tai của hồi môn của mợ cũng nằm lại ở cái tiệm vàng ngoài ngã tư.
Lần thứ ba, cậu nói chắc như đinh đóng cột “chỗ này tui thấy được lắm” và cậu chỉ thật sự từ bỏ khi dòng nước mặn đục ngầu vẫn dửng dưng chảy ra, thấm vào đầu lưỡi của cậu. Hình ảnh cây bơm nước chảy ra những dòng nước trắng xóa, mát lành cũng tan đi sau những lần miệt mài hy vọng.
Để trữ nước ngọt dùng cho những ngày nắng hạn, người dân Nước Mặn thường tận dụng tất cả những thứ gì có thể đụng được nước. Ngày ba má dọn ra ở riêng, ông bà nội cũng cho ba má tôi một cặp lu với miếng đất sau nhà. Những chiếc lu tròn bóng nhẵn cứ dọc ngang dưới nhánh sông quê, mang đến từng mái nhà, thôn xóm.
Người dân Nước Mặn đã quá quen với ông Sáu làm lu, cái nghề cực nhưng cả nhà cứ truyền hết đời này đến đời khác, ông Sáu cười hề hề “không nỡ bỏ, cực mấy cũng làm”. Tôi từng theo ghe ông Sáu đi giao lu cho người dân Nước Mặn, chiếc ghe rẽ vào những kênh rạch chằng chịt. Có nhà ghe không thể chở lu lên được, cả xóm cùng nhau phụ dong lu về nhà.
Chiếc lu được thả nổi trên mặt nước, người đứng trên bờ cầm dây kéo, người đứng dưới nước vịn không để lu chìm xuống nước. Khi đến gần bờ, người ta lại lót miếng ván rồi cùng nhau lăn lu lên. Tôi đứng trên bờ nhìn nụ cười của chủ nhà, nghe tiếng thở phào nhẹ nhõm của ông Sáu, những tràng vỗ tay của mấy đứa trẻ khi chiếc lu nằm yên trước nhà. Nó lại sống một cuộc đời thầm lặng mà vinh quang.
Những hàng lu nằm thẳng tắp quanh nhà, đợi hứng những giọt nước mưa từ mái lá. Mọi thứ như cong lại chờ mưa về. Đám trẻ Nước Mặn cũng mỏi mòn, teo tóp với những ngày thiếu nước, những người đàn ông xóm tôi chỉ xối đúng một ca nước nhỏ sau khi kỳ cọ dưới dòng nước mặn đắng. Cây cỏ quanh nhà dường như cũng hiền từ hơn.
Có năm, mưa đến muộn, người dân Nước Mặn phải gồng mình chống chọi, tận dụng nước vo gạo để rửa chén, rồi tưới cây. Tấm áo trắng đến trường của tôi cũng ngã phèn vàng ố, sau ba bốn đợt giặt nước dưới ao. Người ngợm cũng nổi mốc, ghẻ lở đầy người. Đám trẻ trong xóm đầu tóc bù xù, ngồi bắt chấy cho nhau trước hiên nhà nắng gắt. Những người phụ nữ lại ngồi thở hắt chờ mưa…
Mấy chiếc ghe chở nước ngọt lại xôn xao cả một góc sông. Mùa hạn, ghe chở nước có khi vào ra mấy cữ mà vẫn không đủ nước cung cấp cho bà con. Tiếng động cơ bơm nước vào lu, tiếng người dân đứng trên bờ gọi nhau í ới đổi nước, tiếng người lớn trong nhà dặn đám trẻ “xài nước tiết kiệm” cứ âm vọng từ bờ này sang bờ kia.
Ông chủ ghe nước cẩn thận cuốn ống nước xuống ghe, ông cố không để giọt nước nào rơi ra khỏi cái ống dài ngoằn ngoèo. Ông vẫn nở nụ cười với những người phụ nữ cò kè giá cả, thấy vậy chứ không lời bao nhiêu đâu.
Người dân Nước Mặn vẫn đứng trên bờ trông theo chiếc ghe mà chặc lưỡi thèm thuồng “phải có tiền đổi thêm một lu nước nữa”. Đám trẻ con quanh quẩn bên lu nước, người lớn lại đậy nắp lu giữ kĩ như báu vật. Tôi nhớ có lần, má ngồi thẫn thờ bên hiên nhìn cái lu nước có con chuột chết nổi lềnh bềnh bên trong.
Vớt con chuột ra khỏi lu, má lại rón rén đậy nắp lại, căn dặn cả nhà không được uống, má đành dùng nó để tưới cây, giặt giũ. Và tuyệt nhiên những lần sau đó, má đậy kín cái lu bằng bất cứ vật gì có thể che chắn được.
Tôi thường thả cá lia thia vào lu để diệt lăng quăng, làm sạch nước. Má vẫn thường lắc đầu mỗi khi thấy mấy con cá lia thia chơi vơi dưới đáy lu, cái thau múc nước cũng hiền từ đến lạ. Và những chiếc ghe chở nước lại tản đi mang theo bao niềm khao khát của dân vùng đất mặn.
Đất mặn dạy con người ta cách thích nghi, cách người ta bám trụ lại với quê hương xứ sở. Thế hệ đi trước lại truyền cho thế hệ sau những bài học về cây trồng giống má, về cách thau chua rửa mặn. Cánh đàn ông Nước Mặn luôn nhắc nhau khi nào cày đất, nếm nước dưới sông để nhắc cùng nhau đồng loạt bơm nước vào đồng.
Khi bơm nước ngọt vào đồng, người dân Nước Mặn lại cày đảo sục bùn lên, sau đó để bùn lắng xuống rồi lại tháo nước ra hết rồi lại đưa nước ngọt vào. Mọi thứ được lặp đi lặp lại nhiều lần, để khi gieo hạt lúa vào đất, nó lại bén rễ mà đâm chồi đứng dậy.
Dường như cây lúa ở vùng đất này cũng rắn rỏi hơn, những thân lúa mỏng manh luôn biết tựa vào nhau không bao giờ ngã đổ như đám trẻ còi cọc ở Nước Mặn vẫn âm thầm lớn lên. Đi qua những vạt đồng xanh ngăn ngắt, mới hay đất mặn đâu đã phụ người.
Những cơn mưa về ngang qua miền đất mặn, lũ trẻ tưng bừng đón những giọt mưa đầu tiền sau mùa hạn kéo dài, chúng mặc kệ câu nói của người lớn tuổi trong nhà “mưa đầu mùa dễ bệnh” nhưng cả người lớn cũng không thể cưỡng lại được những giọt nước mát lành.
Tôi ào vào mưa, đưa tay hứng những giọt nước long lanh như miền đất mặn khao khát chờ mưa. Hàng lu lại oằn mình hứng nước dự trữ cho mùa sau, mưa lại xối hàng lá mục trên mái hiên nhà. Đám trẻ lại ùa nhau đi bắt cá lên theo dọc bờ ruộng, mấy con cá ốm tong teo sau mùa hạn cũng rộn ràng khi gặp mưa.
Người già trong xóm nở nụ cười tươi rói khi nhìn mưa về, những người phụ nữ lại lôi hết quần áo, mùng mền ra sân giặt giũ. Mùi ẩm mốc của những sợi vải cứng đờ chỉ thật sự tan đi khi thấm vào nước.
Đồng cỏ cháy được tưới mát bằng những cơn mưa đầu mùa, mấy cái cành cây bắt đầu nhú lên những chồi non mới. Những người đàn ông Nước Mặn lại xôn xao những vụ mùa no hạt. Đất mặn lại hồi sinh chở che biết bao nhiêu phận người nhỏ bé.