Theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công toàn cầu tính đến cuối năm 2022 đã chạm mức 91 nghìn tỷ USD, hay 92% GDP.
Các nhà đầu tư từ lâu đã chia sẻ lo lắng về con đường phát triển dài hạn của nền tài chính Mỹ. Ông Roger Hallam - phụ trách vấn đề tỷ giá toàn cầu tại nhà quản lý tài sản Vanguard nhận định, thâm hụt tiếp diễn và gánh nặng nợ gia tăng đang khiến mối lo dài hạn đó trở thành mối lo ngại trong trung hạn.
Trong khi đó, tại Pháp, tình trạng bất ổn chính trị đã làm trầm trọng thêm nỗi lo về nợ công, khiến lợi suất trái phiếu tăng vọt. Vòng đầu tiên của cuộc tranh cử nhanh vào tuần trước cho thấy một số lo ngại tồi tệ về thị trường có thể không xảy ra.
Song, ngay cả khi không có nguy cơ khủng hoảng ngay lập tức, các nhà đầu tư vẫn đòi hỏi lợi suất cao hơn để mua nợ của nhiều chính phủ trong bối cảnh khoảng cách giữa chi tiêu và thuế ngày càng tăng.
Chi phí trả nợ cao hơn có nghĩa là ít tiền hơn cho các dịch vụ công quan trọng hoặc ứng phó với cuộc khủng hoảng như tài chính, đại dịch hoặc chiến tranh.
Vì lợi suất trái phiếu chính phủ được sử dụng để định giá các khoản nợ khác, chẳng hạn như thế chấp, lợi suất tăng cũng có nghĩa là chi phí vay nợ cao hơn, gây tổn hại đến tăng trưởng kinh tế. Khi lãi suất tăng, đầu tư tư nhân giảm khiến các chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc vay mượn để đối phó với suy thoái kinh tế.
Trong bối cảnh này, bà Karen Dynan - cựu nhà kinh tế trưởng tại Bộ Tài chính Mỹ và hiện là Giáo sư tại Trường Harvard Kennedy cho biết, việc giải quyết vấn đề nợ của Mỹ sẽ đòi hỏi phải tăng thuế hoặc cắt giảm các phúc lợi, như các chương trình an sinh xã hội và bảo hiểm y tế.
“Nhiều chính trị gia không sẵn lòng nói về những lựa chọn khó khăn sắp phải thực hiện. Đây là những quyết định rất nghiêm túc… và chúng có thể gây hậu quả rất lớn cho cuộc sống của mọi người”, bà Karen Dynan cho biết.
Kenneth Rogoff - Giáo sư kinh tế tại Đại học Harvard cũng đồng ý rằng, Mỹ và các nước khác sẽ phải có những điều chỉnh đau đớn.
“Trong những năm 2010, rất nhiều học giả, nhà hoạch định chính sách và ngân hàng trung ương đã đưa ra quan điểm rằng lãi suất sẽ gần bằng 0 mãi mãi và sau đó họ bắt đầu nghĩ nợ là bữa trưa miễn phí…
Điều đó luôn là sai lầm vì chúng ta có thể nghĩ nợ chính phủ giống như một khoản thế chấp có lãi suất linh hoạt. Nếu lãi suất tăng mạnh, khoản thanh toán lãi sẽ tăng lên rất nhiều. Đó chính xác là những gì đã xảy ra trên toàn thế giới”, ông Kenneth Rogoff cho biết.
Theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) của Mỹ, vào năm tới, các khoản thanh toán lãi sẽ lên tới 1 nghìn tỷ USD đối với khoản nợ quốc gia trị giá hơn 30 nghìn tỷ USD, bản thân nó là một khoản tiền gần bằng quy mô nền kinh tế Mỹ.
CBO dự đoán, nợ của Mỹ sẽ đạt 122% GDP chỉ sau 10 năm nữa. Vào năm 2054, nợ được dự báo sẽ đạt 166% GDP và khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại.
Vậy nợ bao nhiêu là nhiều? Các nhà kinh tế không cho rằng, có một mức độ xác định trước để những điều tồi tệ xảy ra trên thị trường.
Tuy nhiên, hầu hết đều cho rằng, nếu nợ chạm mức 150% hoặc 180% GDP, điều đó có nghĩa là những chi phí rất nghiêm trọng đối với nền kinh tế và xã hội nói chung.