Trong hơn 25 năm hành nghề bác sĩ, hơn phân nửa bệnh nhân mắc ung thư não mà Josh Rubin từng chữa trị là nam. Các đồng nghiệp của Rubin tại Viện Ung thư Dana-Farber ở Boston và Đại học Y Washington, St. Louis cũng nhận thấy sự chênh lệch tương tự.
10 năm trước, để chắc chắn những đánh giá của bản thân và đồng nghiệp không chủ quan, Rubin tìm đến những thống kê quốc gia về tỷ lệ mắc ung thư. “Dữ liệu cho thấy thực sự trong nhiều thập kỷ qua, nam giới mắc bệnh ung thư nhiều hơn nữ”, ông cho biết.
Nhắc đến u não là nhắc đến nam giới
Rubin cũng thấy rằng quá trình phát triển mầm bệnh và khả năng sống sót ở nam cũng khác biệt nữ ở một loạt căn bệnh ung thư.
Ngoài những loại ung thư chủ yếu hoặc chỉ xuất hiện ở phụ nữ như ung thư vú, buồng trứng, ung thư tử cung và ung thư cổ tử cung, chỉ có một số rất ít dạng ung thư phổ biến hơn ở nữ giới.
Và khi nhắc đến u não, hầu như tất cả đều nghĩ đến những trường hợp là nam giới mắc bệnh.
Các tế bào ở chuột cái phục hồi chức năng của protein ức chế khối u p53 nhanh hơn - chức năng sẽ rối loạn khi một số bệnh ung thư diễn ra, bao gồm cả dạng u nguyên bào thần kinh đệm. “Sự khác biệt này thực sự đáng kinh ngạc”, Rubin nói.
Điều này có thể đóng vai trò lớn trong việc đàn ông bị ung thư nhiều hơn. Trước đây, người ta thường cho rằng nguyên nhân nằm ở tuần hoàn hormone giới tính. Tuy nhiên, Rubin khẳng định căn nguyên vấn đề nằm ở rất nhiều nhân tố sinh học khác.
Nhiều bệnh ung thư biểu hiện sự biến đổi trong quá trình trao đổi tương đối khác nhau giữa nam và nữ. Ảnh: BBC. |
Trong nhiều năm qua, các nhà nghiên cứu đã tìm ra nhiều đặc điểm khác biệt của tế bào liên quan đến ung thư giữa nam và nữ.
Năm 2017, nhóm nghiên cứu tại Trường Y Harvard cùng MIT đã xác định một số gen ức chế khối u là các gen tách rời từ nhiễm sắc thể X trong tế bào u từ bệnh nhân nữ, do đó, tốc độ hồi phục ở phụ nữ biểu hiện nhanh hơn so với nam.
Mang hai bản sao của nhiễm sắc thể X - XX, nữ giới ức chế khối u gấp đôi so với mức độ tạo ra từ nhiễm sắc thể X đơn lẻ ở nam giới - XY.
Claudine Junien, chuyên gia di truyền học tại Đại học Versailles Saint-Quentin-en-Yvelines, Pháp cho rằng phụ nữ được bảo vệ nhiều hơn bởi mức độ gia tăng các gen ức chế khối u.
Ngay cả trong trường hợp đột biến xảy ra làm vô hiệu hóa một nhiễm sắc thể trên gen, ở phụ nữ vẫn còn một bản sao lưu nhiễm sắc thể X thứ hai còn hoạt động, duy trì khả năng bảo vệ, chống lại sự tăng sinh tế bào bất thường.
Tuy nhiên, ức chế khối u chỉ là một phần của cuộc chơi khó nhằn này. Nhiều bệnh ung thư biểu hiện sự biến đổi trong quá trình trao đổi tương đối khác nhau giữa nam và nữ.
Khi Rubin cùng các đồng nghiệp so sánh biểu thị gen trong các mẫu mô xét nghiệm ung thư nguyên bào sợi thần kinh từ các bệnh nhân nam và nữ, dấu hiệu thể hiện qua quá trình biến đổi glycolysis (thủy phân glucozo) dự đoán được khả năng sống khác nhau giữa hai giới.
Trong khi nam giới có khả năng sống thấp hơn khi có dấu hiệu của quá trình glycolytis xuất hiện trong tế bào ung thư, phần trăm sống của nữ giới hầu như không bị ảnh hưởng bởi glycolysis.
Cá nhân hóa giới tính trong chữa trị ung thư
Năm 2018, các nhà nghiên cứu tại Viện Ung thư Dana-Farber và các tổ chức có trụ sở tại New England xác định các mô hình cấu trúc điều hòa hoạt động phiên mã có liên quan đến đường chuyển hóa thuốc, quan hệ mật thiết đến khả năng sống ở phụ nữ, nhưng không hiệu quả với nam giới, chẳng hạn những người đang hóa trị ung thư ruột kết.
Đến 2019, trong nghiên cứu về dấu hiệu biểu hiện trong u nguyên bào thần kinh đệm, Rubin và các cộng sự xác định được thêm các khuynh hướng giới tính trong cách tế bào liên quan đến ung thư.
Ở phụ nữ, khả năng sống có liên quan đến kiểu biểu thị gen, gắn với tín hiệu integrin (một loại protein đóng vai trò quan trọng cho các tế bào có thể liên kết hiệu quả với chất nền ngoại bào). Trong khi sự sống sót ở nam giới lại tương quan với kiểu biểu hiện gen qua cách điều hòa chu kỳ tế bào.
Những phát hiện này phản chiếu kết quả phân tích hình ảnh MRI tiêu chuẩn của nhóm nghiên cứu. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của nam giới chỉ có thể được dự đoán từ tỷ lệ tăng sinh khối u, trong khi đối với nữ có thể dự đoán qua cả tỉ lệ tăng sinh và tỉ lệ xâm lấn của khối u. Chu kỳ của tế bào kết nối rõ ràng với sự tăng sinh.
Hiểu biết về khác biệt giới tính trong sinh học tế bào sẽ là chìa khóa phát triển các phương pháp điều trị ung thư tốt hơn. Ảnh:Medicine News Today. |
Ngoài ra, các integrin (những protein giúp tế bào ung thư liên kết với mạng lưới protein bao quanh, cho phép chúng sống sót và phát triển) còn biểu hiện sự lan rộng tế bào ung thư thông qua thay đổi về độ bám dính và di chuyển của tế bào.
"Không có bằng chứng cho thấy những cơ sở này liên quan trực tiếp với nhau, nhưng giữa chúng chắc chắn có sự thống nhất nhất định”, Rubin nói.
Đồng tình với những kết quả mà Rubin đưa ra về khác biệt tế bào ở nam và ở nữ trong ảnh hưởng khả năng mắc ung thư, Art Arnold - nhà sinh lý học tiên phong nghiên cứu gen và nội tiết tố trong khác biệt giới tính sinh học tại Đại học California, Los Angeles thừa nhận: Vai trò của khác biệt giới tính đang được hiểu biết rộng rãi hơn.
"Công trình nghiên cứu của bác sĩ Rubin liên quan đến những yếu tố rất đáng xem xét - những yếu tố từ chính bên trong tế bào", ông Arnold cho hay.
“Hiểu biết về khác biệt giới tính trong sinh học tế bào sẽ là chìa khóa phát triển các phương pháp điều trị ung thư tốt hơn", Christine Disteche, nhà di truyền học tại Đại học Washington, Seattle nhận định.
Cuối cùng, Rubin lưu ý rằng các thử nghiệm lâm sàng gộp hai giới lại với nhau sẽ không tìm được phương pháp điều trị tối ưu cho cả hai.
“Trong thời đại mà mọi người thích nói về y học cá nhân hóa (những biện pháp phòng ngừa, trị liệu được thiết kế để ngừa và chữa bệnh theo nhu cầu đặc thù của một người hay nhóm người nào đó), nhưng cá nhân hóa giới tính ở mỗi người lại không được đề cập thì quả là khó tin”, ông nói.