Gian nan gieo chữ ở bản nghèo
Na Ngân là bản xa xôi và khó khăn nhất của xã Nga My (Nghệ An), nằm lọt thỏm giữa Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống. Bản Na Ngân có hơn 150 hộ dân với hơn 750 nhân khẩu, đều là đồng bào người Thái, sinh sống bên dòng Nậm Ngân quanh co uốn lượn.
Để đến được điểm trường bản Na Ngân phải mất nhiều giờ đồng hồ đi xe máy trên con đường đất cheo leo, hiểm trở với vách núi, vực sâu của dãy núi Pù Hiêng.
Năm học 2025-2026, điểm trường Tiểu học khối bản Na Ngân thuộc Trường Phổ thông DTBT Tiểu học Nga My có 19 học sinh, trong đó có 8 học sinh lớp 1, 11 học sinh lớp 2. Đứng lớp giảng dạy tại điểm trường có 2 giáo viên, trong đó có một cô giáo. Đóng chân trên địa bàn đặc thù vùng khó khăn, nên công tác giảng dạy của các giáo viên nơi đây cũng gặp nhiều thiếu thốn, vất vả.
Sau nhiều năm cắm bản vùng khó Na Kho (xã Nga My), đến năm học 2025-2026, thầy giáo Phan Ngọc Khánh (trú xã Tam Quang, Nghệ An) chuyển về giảng dạy ở điểm trường Tiểu học bản Na Ngân, đảm nhận giảng dạy lớp 2.
Tranh thủ nhóm lửa thổi cơm trưa, thầy Khánh cho biết, Na Ngân là vùng đất có khí hậu rất khắc nghiệt, những ngày lạnh, nền nhiệt ở thung lũng giảm rất sâu, chênh lệch rất lớn so với vùng ngoài Pù Huống.
Hiện tại, nguồn nước sinh hoạt, nấu ăn hằng ngày của thầy cô tại điểm trường là nguồn nước khe, suối tự chảy, đấu nối bằng ống dẫn từ các hộ dân trong bản.
Thầy Khánh tâm sự: "2 vợ chồng tôi đều theo nghiệp trồng người nhưng cả 2 đều công tác xa nhà và ở vùng khó khăn. Để tiện bề nuôi dạy, chăm sóc con nên cả 2 đứa con của vợ chồng tôi đều theo mẹ lên trường để ăn học, cách nhà cả trăm cây số".
Do đường sá đi lại khó khăn nên nếu thời tiết thuận lợi, cuối tuần vợ chồng thầy Khánh mới về thăm nhà. Khi trời mưa thì 2 tuần mới về thăm con được. Mỗi lần lên bản, anh mang theo thực phẩm đủ dùng trong 1 tuần, thậm chí mang nhiều hơn để nấu cho học sinh và phòng thời tiết xấu.
Hơn 30 năm trong nghề với thâm niên cắm bản ở những điểm trường xa xôi, khó khăn nhất của huyện Tương Dương (cũ) là ngần ấy thời gian thầy Khánh gắn bó với việc dạy chữ trên non cao, nên thầy hiểu tường tận mọi khó khăn của bà con.
Bám bản vì học trò nghèo
Đảm nhận công tác giảng dạy ở khối lớp 1 ở điểm bản Na Ngân, cô giáo Kha Thị Minh (SN 1974, trú tại xã Nga My, Nghệ An) có hơn 30 năm cống hiến cho sự nghiệp giáo dục tại địa bàn. Những khó khăn, vất vả khi cắm bản ở vùng trũng Na Ngân, hơn ai hết cô Minh là người nếm đủ.
"Cứ vào mùa mưa lũ, mỗi khi đi từ trung tâm xã vào điểm trường bản Na Ngân và ngược lại, phải đối diện với hiểm nguy do đường hẹp, lắm dốc cao, vực sâu, trơn trượt. Trước năm 2010, khi chưa có đường, cô trò phải đi bộ dọc ven suối Nậm Ngân và hơn 40 lần phải lội qua khe suối", cô Minh nhớ lại.
Những lần di chuyển như vậy, cô Minh phải đùm cơm mang theo ăn dọc đường. Đi từ trung tâm xã Nga My lúc gà rừng gáy sáng, đến mãi tận hơn 3 giờ chiều cùng ngày mới vào được bản Na Ngân.
Đến năm 2010, con đường xuyên rừng nối trung tâm xã Nga My với các bản Na Ca, Na Canh, Xốp Kho vào bản Na Ngân lọt thỏm trong thung lũng giữa đại ngàn Pù Huống được hình thành. Thời gian đi lại được rút ngắn nhưng việc phải vượt dốc cao, vực sâu cũng chẳng làm vơi đi nỗi vất vả, khó nhọc của các giáo viên và người dân trong bản mỗi khi đi lại.
Năm học này, qua nhiều đợt mưa lũ, con đường độc đạo từ trung tâm xã vào bản Na Ngân sạt lở, nhiều cầu tạm qua khe suối bị cuốn trôi khiến việc đi lại của bà con cũng như các thầy, cô giáo khó khăn thêm gấp bội.
Bình thường vượt quãng đường từ trung tâm xã vào đây dạy học mất tầm 1,5 đến 2 tiếng nhưng những ngày mưa, đường trơn trượt việc ngã xe máy, tư trang và thiết bị dạy học ướt sũng, lấm lem bùn đất là chuyện thường ngày. Có khi vào đến bản cũng mất 4-5 tiếng.
Theo thầy giáo Phan Ngọc Khánh, đời sống kinh tế của người dân bản Na Ngân còn gặp nhiều khó khăn nên ảnh hưởng rất nhiều đến việc học tập của các học sinh. Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn, chưa có công trình phụ, nhà tắm tạm bợ, khu ký túc cho giáo viên, học sinh chưa có mà phải dùng tạm phòng học để tá túc, nghỉ ngơi.
Khu vực bếp nấu cũng tạm bợ, thầy cô phải dùng bếp củi để nấu thức ăn hằng ngày. Bản làng gần như biệt lập với bên ngoài, kinh tế của dân bản tự cung tự cấp nên nguồn lương thực, thực phẩm của thầy cô phải tự mang từ ngoài vào.
"Để có nguồn rau xanh, thầy cô phải bỏ công sức cải tạo khu đất sau bếp ăn thành mảnh vườn nhỏ trồng các loại cải, rau muống, mướp, bầu…", thầy giáo Khánh nói về chuyện tăng gia để cải thiện bữa ăn tại chỗ.
Trong khi đó, cô Kha Thị Minh chia sẻ, với học sinh lớp 1, giáo viên giảng dạy gặp phải những khó khăn đặc thù riêng. Bởi khi ở bậc mầm non lên, các cháu chỉ biết được nét chữ của bảng chữ cái.
Lên lớp 1, các cháu phải học đánh vần, tập đọc, tập viết. Do bất đồng về ngôn ngữ nên giáo viên phải dùng một lúc hai ngôn ngữ Tiếng Việt, Tiếng Thái để các cháu tiếp thu được bài giảng.
Mong muốn lớn nhất của các thầy, cô giáo cắm bản là con đường vào bản Na Ngân được mở rộng, nâng cấp, có cầu kiên cố bắc qua khe suối để đi lại đỡ vất vả, khó khăn, hiểm nguy. Cô trò từng nhiều lần ngã trên con đường này khi đi dạy gặp ngày mưa, hay bất lực nhìn dòng nước lũ hung dữ chặn đường tại những điểm khe, suối.
Khó khăn là vậy nhưng những năm qua, thầy cô ở điểm trường Tiểu học ở bản Na Ngân nỗ lực vượt qua trở ngại, khó khăn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Mỗi giáo viên nơi đây đều được bà con làng bản tin yêu, quý mến.
Ông Lương Văn Ủn, Trưởng bản Na Ngân cho biết, bản nằm ở vùng sâu, vùng xa, kinh tế còn gặp khó khăn, đặc biệt đường giao thông đi lại rất khó khăn, vất vả.
"Dù khó khăn nhưng các thầy cô vẫn luôn đi dạy đúng ngày, luôn chu đáo, tận tình, tâm huyết chăm lo, giảng dạy con em đồng bào. Dân bản chúng tôi rất tin tưởng khi con em được học tập tại các điểm trường", ông Ủn chia sẻ.