Sàng lọc mang đến cơ hội chữabệnh sớm hơn
Theo GLOBOCAN 2018, Việt Nam ghi nhận hơn 15 ngàn trường hợpmắc mới và hơn 6000 người tử vong vì căn bệnh ung thư vú.
Do yếu tố tâmlý nên nhiều chị em phụ nữ còn e ngại, không đi khám sàng lọc để được phát hiệnsớm. Nên nhiều chị em tới bệnh viện khi bệnh đã chuyển sang giai đoạn muộnkhiến việc điều trị gặp nhiều khó khăn và tốn kém.
Trong những năm qua, côngtác nâng cao chất lượng khám tầm soát phát hiện sớm ung thư vú, điều trị ungthư vú luôn được Bệnh viện K chú trọng. Sàng lọc ung thư vú là việc sửdụng các xét nghiệm sàng lọc để phát hiện các bất thường tại tuyến vú ở giaiđoạn chưa có triệu chứng lâm sàng.
Dựa trên những bất thường này, các bácsỹ sẽ tiến hành các biện pháp chẩn đoán phát hiện sớm bệnh ung thư vú. Mụctiêu của sàng lọc ung thư vú là tăng tỷ lệ chẩn đoán sớm và giảm tử vong do ungthư vú.
Có hai hình thức sàng lọc ung thư vú phổ biến làsàng lọc toàn dân và sàng lọc dựa trên cá thể. Số liệu thống kê của Tổ chức Ytế Thế giới cho thấy, số ca mắc ung thư vú có xu hướng tăng dần hàng năm trênphạm vi toàn thế giới, nhưng số ca tử vong do ung thư vú hàng năm lại có xuhướng giảm đi.
Kết quả này có được là nhờ những tiến bộ gần đây trong điều trịung thư vú và nhờ việc tăng tỷ lệ ung thư vú được chẩn đoán sớm thông qua cácchương trình sàng lọc, phát hiện sớm đang được triển khai rộng rãi ở nhiều nước.
Sàng lọc ung thư vú giúp làm tăng tỷ lệ chẩn đoán bệnhở giai đoạn sớm, và do đó làm tăng tỷ lệ điều trị khỏi. Hơn nữa, điều trị ungthư vú giai đoạn sớm thường ít phức tạp hơn và sẽ ít tốn kém hơn so với chẩnđoán ở giai đoạn muộn.
Bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm cũng có cơ hội lựachọn các cách thức điều trị ít tác dụng phụ hơn như phẫu thuật bảo tồn, khôngvét hạch nách, không phải xạ trị…
Thăm khám và xét nghiệm sàng lọc
Tùy theo mức nguy cơ mắc ung thư vú mà hoạt động sànglọc sẽ được chỉ định khác nhau.
Nhóm nguy cơ trung bình: Phụ nữ trên 40 tuối, không có yếu tố nguy cơ đặc biệt, được khuyến cáosàng lọc ung thư vú bằng các phương pháp:
+ Khám lâm sàng tuyến vú.
+ Xét nghiệm x-quang tuyến vú (có thể thêm siêu âmtuyến vú, nếu cần) định kỳ hàng năm để phát hiện sớm những bất thường ở tuyếnvú mà chưa có biểu hiện lâm sàng. Dựa trên kết quả về chẩn đoán hình ảnh vàkhám lâm sàng, các bác sĩ sẽ quyết định làm thêm xét nghiệm khác hoặc hẹn khámsàng lọc sau 06 tháng – 01 năm.
Nhóm tăng nguy cơ: Phụnữ chưa đến 40 tuổi, không có triệu chứng hay dấu hiệu bất thường, nhưng thuộcnhóm đối tượng có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn bình thường, thì cần đi gặpbác sĩ để được tư vấn về thời điểm bắt đầu và lịch sàng lọc ung thư vú.
Phụ nữthuộc nhóm này có thể được sàng lọc sớm hơn, thời gian sàng lọc định kỳ dày hơnvà làm nhiều xét nghiệm sàng lọc hơn. Ở những người có các yếu tố gợi ý có độtbiến gen và ung thư vú là một bệnh di truyền, việc sàng lọc bao gồm cả việc tưvấn xét nghiệm tìm các đột biên gen liên quan như BCRA1/2, và là cơ sở để đưara các tư vấn di truyền phù hợp.
+ Khám lâm sàng tuyến vú: Do bác sĩ thực hiện nhằm phát hiện những bất thườngtại vú, hạch hoặc các vị trí khác mà phụ nữ không phát hiện ra trong lúc tựkhám vú.
+ Chụp X-quang tuyến vú (còn gọi là chụp nhũ ảnh – mammography): Mục đích là để tìm kiếmnhững bất thường về hình ảnh tuyến vú. Xquang tuyến vú có thể phát hiện nhữngbất thường ở giai đoán rất sớm, kể cả khi chưa có biểu hiện lâm sàng.
+ Siêu âm: Siêuâm tuyến vú là phương pháp dùng sóng siêu âm để ghi lại hình ảnh của tuyến vú.Đây là một phương pháp cung cấp thông tin bổ trợ cho xquang tuyến vú, nhất là ởnhững bệnh nhân có mật độ tuyến vú lớn.
Ngoài ra, siêu âm tuyến vú còn giúpđánh giá tình trạng hạch nách, có thể giúp phân biệt nang tuyến vú với các tổnthương dạng đặc tại vú.
Đối tượng nên thực hiện sàng lọc
Thông thường, sàng lọc ung thư vú dựa trên nguy cơ mắc ung thư vú của phụ nữ. Người ta có thể chia đối tượng sàng lọc ung thư vú thành hai nhóm nguy cơ là nhóm nguy cơ trung bình và nhóm tăng nguy cơ. Nhóm tăng nguy cơ (nguy cơ tích lũy đến tuổi 75 là 15-20%):
+ Tiền sử gia đình (họ hàng bậc 1) có người mắc ung thư vú hoặc/và ung thư buồng trứng, vòi trứng, phúc mạc; Có mẹ, chị em gái, hoặc con gái đã được xác định mang đột biến gen BRCA1/2; Tiền sử sinh thiết vú chẩn đoán tăng sinh không điển hình.
+ Tiền sử mắc ung thư biểu mô thể tiểu thùy tại chỗ (LCIS); Tiền sử xạ thành ngực điều trị ung thư trước tuổi 30.
Ngoài ra, những phụ nữ đã được xác định có mang gen BRCA đột biến sẽ được xếp vào nhóm có yếu tố di truyền, cần có một chương trình sàng lọc, dự phòng và tư vấn đặc biệt.
Nhóm nguy cơ trung bình: Bao gồm những chị em phụ nữ trên 40 tuổi, không có bất kỳ dấu hiệu nào của nhóm yếu tố tăng nguy cơ.