'Khát' nhân lực công nghiệp hỗ trợ

GD&TĐ - Nguồn nhân lực còn thiếu và chất lượng chưa đồng đều như hiện nay đang là trở ngại lớn của nhiều doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ.

Ngành công nghiệp hỗ trợ có nguy cơ thiếu nhân lực tay nghề cao.
Ngành công nghiệp hỗ trợ có nguy cơ thiếu nhân lực tay nghề cao.

Công nghiệp hỗ trợ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp chủ lực, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng giá trị xuất khẩu, nâng cao tỷ lệ nội địa hóa...

Thiếu và yếu về chất lượng

Theo đánh giá của Bộ Công Thương, nguồn nhân lực hiện nay là yếu tố quan trọng đối với việc cải thiện chất lượng sản phẩm, do vậy, phát triển nguồn nhân lực là vấn đề rất quan trọng trong sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT).

Mặt khác, việc thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và tay nghề cao đã khiến nhiều doanh nghiệp (DN) tốn không ít nguồn lực, chi phí vì sau khi tuyển dụng xong thì phải gần như đào tạo lại để phù hợp với trình độ chuyên môn và mục tiêu sản xuất kinh doanh của DN.

Hiện nay, số lượng lao động có tay nghề cao trong ngành CNHT đang rất hạn chế so với nhu cầu của ngành. Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực có tay nghề cao trong các ngành này tại Việt Nam thấp hơn so với các nước phát triển khác.

Đào tạo ngành kỹ sư chế tạo ở các trường đại học, cao đẳng cũng thường ít hơn các ngành khác. Hơn nữa, nhiều DN trong nước chưa gắn kế hoạch phát triển nguồn nhân lực với các trường đại học, cao đẳng nên có sự thiếu hụt về nhân lực có tay nghề cao, không chủ động nguồn nhân lực.

Bà Trần Minh Hà - Trưởng phòng Tư vấn và Tuyển dụng, Công ty Power Lif cho biết, qua khảo sát các DN sản xuất hầu hết đang gặp vấn đề về nhân sự. Nhiều đơn hàng đổ về, nhưng DN lo không đủ nhân công để thực hiện. Nguồn lao động vốn đã thiếu nay càng thiếu hơn sau đợt dịch Covid-19. Không chỉ lo thiếu lao động, nhiều DN công nghiệp hỗ trợ còn đang rất “khát” nhân lực có tay nghề, kỹ năng để nâng cao năng suất.

Ông Lê Quý Thành - Giám đốc Nhà máy TOMECO An Khang cho hay, hiện vẫn còn tình trạng chênh lệch giữa khoa học công nghệ thực tế DN đang sử dụng với cập nhật chương trình đào tạo tại các nhà trường ngành CNHT.

Các nhân sự làm việc trong ngành này ngoài kiến thức chuyên môn thì cũng rất cần những am hiểu về hệ thống, về quy trình, tiêu chuẩn cao như ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001… hay cách thức vận hành máy móc, thiết bị hiện đại. Những nguồn nhân sự này hiện nay rất khó tìm được trong các trường đại học.

Ông Thành cho rằng: “Mỗi cá nhân làm việc trong DN CNHT đều phải đặt mình vào bối cảnh rộng lớn hơn. Đừng nghĩ mình chỉ làm việc ở một phòng ban, một công ty mà còn tham gia vào chuỗi giá trị của cả một hệ thống. Nếu ý thức được như vậy, chắc chắn mỗi kỹ sư, người lao động sẽ tìm cách để nâng cao năng lực cạnh tranh cho DN.

Chưa kể, trong ngành CNHT, mỗi công việc của mỗi nhân sự trong công ty thì ngoài việc đánh giá bởi những người quản lý trực tiếp hay ban lãnh đạo công ty thì luôn luôn có sự kiểm tra, đánh giá từ rất nhiều bên trong chuỗi, ví dụ như từ khách hàng, từ đội ngũ đánh giá viên, từ các công ty bên thứ ba.

Giải bài toán nhân lực

Các chuyên gia cho rằng, nguồn nhân lực cho ngành CNHT hiện nay vẫn còn tình trạng “vênh” giữa cung và cầu, tức là từ cơ sở đào tạo đến thực tiễn DN còn khoảng cách. Chia sẻ tại Tọa đàm “Nâng cao chất lượng nhân lực ngành công nghiệp hỗ trợ”, ông Kiều Xuân Thực - Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội phân tích, có hai loại vênh là vênh về số lượng và vênh về chất lượng.

Vênh về số lượng là do sinh viên tốt nghiệp ít, nhưng nhu cầu của DN nhiều. Điều này dẫn đến DN cũng khó trong việc tuyển dụng lao động. Hoặc là chiều ngược lại, có thể sinh viên tốt nghiệp nhiều nhưng thời điểm đấy nhu cầu của DN ít, dẫn đến là dư thừa.

Còn vênh về chất lượng lại là bài toán khó hơn. Sinh viên tốt nghiệp có thể là chưa có hoặc chưa đạt một số năng lực, phẩm chất mà DN mong muốn.

“Như vậy, muốn thu hẹp khoảng cách giữa cung với cầu, chắc chắn là phải có sự vào cuộc từ hai phía, kể cả phía các trường và phía các đơn vị sử dụng lao động mà cụ thể ở đây là DN”, ông Thực nhìn nhận.

Chia sẻ thực tế tại Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội, ông Kiều Xuân Thực cho biết, nhà trường luôn luôn phải tích cực và chủ động trong việc liên kết, hợp tác với DN. Ban đầu là thiết kế, xây dựng nội dung chương trình và điều chỉnh chương trình đào tạo, điều chỉnh quy mô.

“Hàng năm chúng tôi phải lấy ý kiến DN về nhu cầu tuyển dụng. Nếu DN có nhu cầu lao động ít đi, tỷ lệ sinh viên có việc làm giảm đi thì nhà trường cũng phải giảm quy mô tuyển sinh. Hay DN cần những năng lực gì ở từng vị trí việc làm thì nhà trường cũng phải lồng ghép các yêu cầu đấy vào chuẩn đầu ra của chương trình. Tức quy mô tuyển sinh hàng năm phải bám theo nhu cầu của DN để giảm độ vênh”, ông Thực chia sẻ.

Bên cạnh đó, quá trình tổ chức đào tạo cũng có sự vào cuộc của DN cùng với nhà trường, chứ không còn đơn thương độc mã mỗi nhà trường như trước đây nữa. Đồng nghĩa với việc, đưa thầy, đưa trò đến DN, rồi đưa DN vào trường, để xóa độ vênh liên quan đến trình độ kỹ thuật, công nghệ…

“Thực tế nhiều DN đang áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật cao hơn so với cơ sở vật chất, trang thiết bị nhà trường đang có. Nên nếu chúng ta không đưa giảng viên, không đưa sinh viên ra thực hành, thực tập tại DN thì không giải quyết được vấn đề này.

Mặt khác, các kinh nghiệm thực tiễn, các kiến thức, kỹ năng từ các chuyên gia, DN cũng cần được cung cấp ngược lại đối với giảng viên và đối với sinh viên để cập nhật vào chương trình đào tạo”, Hiệu trưởng Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội cho biết.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ