Thiên Cổ Miếu là một ngôi đền được xác định có từ thời Hùng Vương, hiện tọa lạc tại thôn Hương Lan, xã Trưng Vương (Việt Trì – Phú Thọ). Trước đền thờ còn 2 cây táu cổ thụ nghìn năm tuổi đã được Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam công nhận là cây di sản.
UBND xã Trưng Vương cho biết, trong số các cây di sản được công nhận ở nước ta thì 2 cây táu ở Thiên Cổ Miếu được đánh giá là có tuổi đời lâu năm nhất. Ngoài ra còn có cây Da Bò (Xoan đào) cũng được công nhận là cây di sản, là chứng tích sự tồn tại của cổ miếu 2.300 năm ở địa phương.
Thân phận thầy giáo Vũ Thê Lang
Thiên Cổ miếu nằm trong quần thể di tích lịch sử đình Hương Lan, lăng mộ 3 đô sĩ thời Hùng Vương và miếu Thiên Cổ. Trong điện thờ có một bức hoành phi nhỏ.
Khi tìm hiểu về những dòng chữ ghi trên những bức hoành phi, câu đối, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy đây là thứ chữ Việt cổ, có từ trước Công nguyên, là chứng tích cho thấy các giáo sĩ phương Tây cùng những trí thức Việt Nam đã Latin hóa chữ Việt trên cơ sở của bộ chữ này.
“Ngọc phả đình thôn Hương Lan” viết rằng: Vào thời Hùng Vương thứ 18, niên hiệu Hùng Duệ Vương, từ vua đến dân rất quan tâm đến việc học hành, tôn sư trọng đạo, tu thân và lập thân của con người. Vì thế, vua Hùng thứ 18 đặc biệt chú trọng đến việc dạy chữ, dạy người.
Cùng thời đó có vợ chồng thầy cô Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục mở lớp dạy học ngay tại đô thành Văn Lang. Biết được tâm đức của thầy cô, Hùng Duệ Vương đã mời hai người vào cung dạy học cho hai công chúa mà nhà vua rất mực yêu quý là Tiên Dung và Ngọc Hoa.
Hai công chúa được thầy Vũ Thê Lang và Nguyễn Thị Thục dạy chữ, dạy đạo làm người và nhanh chóng trở thành những công nương hiền thục, giỏi giang và tháo vát.
Khi thầy cô tạ thế cùng giờ, cùng ngày 2/2 năm Quý Dậu (288 trước Công nguyên), vua Hùng cùng người dân thôn Hương Lan tiếc thương công đức nên đã an táng ngay tại địa điểm hai người mở lớp dạy học, táng cùng một ngôi mộ. Nhà vua cũng cho phép thôn Hương Lan lập miếu để thờ cúng, hương hỏa.
Tuy nhiên, nhiều người tỏ ý nghi ngờ chuyện kể trong ngọc phả. Họ cho rằng, thời gian đã trải qua khoảng 23 thế kỷ, không có bất cứ một căn cứ đích xác nào để có thể tin tưởng vào thời Hùng Vương đã có thầy giáo dạy học.
Lần giở lịch sử, chúng tôi tìm được bản ngọc phả được viết vào năm Hồng Phúc thứ 2 (1573) đời vua Lê Anh Tông, do Đông Các học sĩ Nguyễn Bính biên soạn theo cách khá chi tiết như sau: Vào thời Hùng Duệ Vương, ở đất Mộ Trạch có vợ chồng Vũ Công, thuộc gia đình có học. Cha mẹ mất sớm, cảnh nhà sa sút, hai người lần tìm về đô thành Phong Châu, tới thôn Hương Lan mở lớp dạy học. Dân làng đã cấp cho họ ruộng đất để trả công dạy dỗ.
Vợ chồng Vũ Công sinh hạ được một người con trai là Vũ Thê Lang. Lớn lên, Vũ Thê Lang tìm về người bạn cũ của bố là Nguyễn Công ở đất Đông Ngàn – Kinh Bắc. Nguyễn Công đã gả cho Thê Lang người con gái yêu của mình là Nguyễn Thị Thục – một cô gái nết na, thạo nghề tơ tằm canh cửi.
Khi cha chết, Vũ Thê Lang tiếp tục thay cha dạy học, Thục Nương giúp dân nghề nông trang, canh cửi. Tiếng lành đồn xa, nhờ học vấn cao và tận tụy với nghề, sống giản dị và mẫu mực nên ông giáo Vũ Thê được vua Hùng thứ 18 giao cho chăm nom việc học hành của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa.
Xét hai bản ngọc phả, tuy một số chỗ không trùng lắp ý tứ nhưng về nội dung cơ bản giống nhau. Cả hai bản ghi đều công nhận thầy giáo Vũ Thê Lang cùng vợ là Thục Nương ở đất Đông Ngàn làm nghề dạy học trong dân gian và chăm nom việc học hành của hai công chúa thời vua Hùng thứ 18.
Cổ miếu cháy… lộ ngọc phả
Hiện nay, ở thôn Hương Lan, còn một số chuyện kể mà ngọc phả không ghi chép. Đó là chuyện các con của vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang: Ngày 11 tháng Giêng năm Mậu Ngọ (303 TCN) ông bà sinh được người con trai đặt tên là Rô - hai năm sau sinh một bọc hai con trai.
Ngày 2/2 năm Quý Dậu (288 TCN) ông bà không ốm mà mất. Ba người con trai cùng các học trò và dân trong thôn trang làm lễ chôn cất rồi dựng miếu thờ.
Người dân địa phương khẳng định rằng, ngay từ thời Hùng Vương, ngôi miếu đã được dựng lên để tưởng nhớ đến người thầy giáo đã có công dậy chữ rèn người. Sau bao năm bị lãng quên, nhờ một trận hỏa hoạn người ta đã tìm thấy cuốn ngọc phả quý giá nói về miếu thờ đó.
Trước những năm 1990 Thiên Cổ Miếu chỉ là một ngôi miếu bình thường, chẳng mấy ai đoái hoài vì hiện trạng quá cũ nát. Đa số người trẻ trong làng còn không biết miếu đó thờ ai và tại sao lại hoang tàn đến như vậy. Chỉ những cụ già mới biết miếu là minh chứng tôn vinh sự học.
Thiên Cổ Miếu tọa trên một gò đất cao được xác định từng là vị trí quan trọng thuộc địa phận Kinh đô Văn Lang xưa. Trong thôn Hương Lan hiện còn nhiều dấu tích chứng tỏ đây là một vùng từng là trung tâm của giáo dục vùng kinh đô vua Hùng.
Vào năm 1990, không hiểu nguyên nhân gì mà cổ miếu hoang tàn ngùn ngụt bốc cháy. Dân làng thấy thế mới hò nhau dập lửa vì sợ lan sang các vùng xung quanh. Kiểm tra các vật thờ bên trong, người ta đã phát hiện ra một cuốn ngọc phả và sắc phong nhưng đã bị cháy lẹm một góc bên trái.
Thời gian sau, khi có đoàn khảo cổ đến hỏi thăm cổ miếu thì các cụ mới bỏ cuốn ngọc phả ra xem ghi chép gì. Các chuyên gia khảo cổ ngỡ ngàng phát hiện đó chính là cuốn ngọc phả và sắc phong cổ. Nội dung ngọc phả có ghi chép rất tỉ mỉ rõ ràng về nhân vật được thờ phụng trong miếu chính là vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang.
“Miếu chủ” tôn sư trọng đạo
Rất nhiều năm sau khi biết Thiên Cổ Miếu là nơi tôn vinh sự học đầu tiên và cổ xưa nhất Việt Nam, các cơ quan chức năng tỉnh Phú Thọ đã lần theo những giả thiết và tìm được tài liệu do người Pháp điều tra về hệ thống đình, đền, miếu mạo còn lưu trữ lại ở Viện Hán – Nôm.
Bản điều tra cho thấy, toàn miền Bắc và miền Trung có hơn 40 đền thờ các thầy cô giáo và các học trò thời trước Hán, tức từ thời Hùng Vương đến thời An Dương Vương.
Soi lại những chứng tích sót lại trong Thiên Cổ Miếu và đặc biệt từ cuốn ngọc phả, các nhà khảo cổ đã tìm thấy danh sách 18 thầy giáo thời Hùng Vương. Đây là lực lượng tạo ra hiền tài cho các vua Hùng và nhà nước Văn Lang.
Trong danh sách đó, nổi bật có thầy Lý Đường Hiên, thời Hùng Vương thứ 6 dạy học ở Yên Vĩ, huyện Hoài Nam, phủ Ứng Thiên, đạo Sơn Nam (nay là Ứng Hòa – Hà Nội). Người thứ hai là thầy Lỗ Công, thời Hùng Vương thứ 9 là cháu ngoại vua Hùng Định Vương dạy học tại Kinh đô Văn Lang.
Từ cuốn ngọc phả và sắc phong đó, người ta phát hiện chính giữa ban thờ Thiên Cổ Miếu là hai ngôi mộ của vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang – Nguyễn Thị Thục. Một số cuộc họp bàn muốn khai quật hai mộ cổ này, nhưng vì nhiều lý do nên không ai dám kinh động đến người thiên cổ.
Do thời gian quá lâu nên Thiên Cổ Miếu chỉ còn giữ lại được một số cổ vật thời Tự Đức năm thứ nhất gồm hoành phi và câu đối. Ngoài ra, một số đồ thờ cúng như tượng vợ chồng Vũ Thê Lang, hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa.
Theo tìm hiểu của Tiến sĩ Nguyễn Anh Tuấn - Bảo tàng Hùng Vương: “Cho đến nay vẫn còn những đền thờ của các thầy giáo và học trò của họ ở khắp miền Bắc. Ví như đền thờ Hải Đường tiên sinh ở huyện Đông Yên, phủ Khoái Châu; đền thờ Trương Sơn Nhạc, học trò thầy Lỗ Đường tiên sinh ở Thuận Thành (Bắc Ninh)”.