Ảnh minh họa
Báo cáo cũng cho biết tình trạng thiếu dinh dưỡng bà mẹ còn ở mức cao, năm 2015 có 13,4% phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ bị thiếu năng lượng trường diễn (BMI thấp). Suy dinh dưỡng bào thai cao, với tỷ lệ 7% trẻ sơ sinh nhẹ cân.
Việc thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ được đánh giá là còn kém khi chỉ có 57.8% trẻ sơ sinh được bú sớm trong vòng 1h đầu; chỉ có 10.8% trẻ dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ là chủ yếu; 15.2% trẻ được bú mẹ đến 2 tuổi.
Viện dinh dưỡng cũng đánh giá, thiếu vi chất ở trẻ nhỏ còn là vấn đề quan trọng sức khỏe cộng đồng, nhưng việc ăn bổ sung của trẻ còn chưa hợp lý. Có đến 27.8% trẻ nhỏ thiếu máu (31.2% ở miền núi),và 69.4% thiếu kẽm (80.8% ở miền núi)
Thiếu an ninh lương thực và nghèo đói ở nhiều khu vực như miền núi phía Bắc, nam miền Trung, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ.
Đặc biệt, Viện Dinh dưỡng nhận định, vấn đề về thừa dinh dưỡng hay dinh dưỡng không hợp lý như thừa cân-béo phì, rối loạn chuyển hóa, tăng huyết áp, tăng đường máu và các bệnh mạn tính không lây liên quan tới dinh dưỡng như bệnh tim mạch, đái tháo đường, ung thư... đang ngày càng gia tăng nhanh chóng và chiếm tới 73% gánh nặng bệnh tật và tử vong.
Do đó, để đảm bảo mọi người ở trong một hành lang an toàn về dinh dưỡng thì cần có chế độ dinh dưỡng và hoạt động thể lực hợp lý.
Theo báo cáo, suy dinh dưỡng rất phổ biến đối với bệnh nhân nằm viện, đó vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của sức khỏe và bệnh tật. Suy dinh dưỡng làm chậm quá trình hồi phục và làm nặng tình trạng bệnh, tăng thời gian nằm viện và tỷ lệ biến chứng, tỷ vong cao hơn.
Tuy nhiên, tại Việt nam, cho tới nay vấn đề điều trị bằng dinh dưỡng cho các bệnh nhân còn ít được quan tâm. Mặc dù tại các bệnh viện, khoa Dinh dưỡng đã được thành lập thì trên thực tế, hoạt động của khoa Dinh dưỡng chưa đáp ứng yêu cầu, năng lực của cán bộ khoa Dinh dưỡng còn yếu, chưa cung cấp suất ăn bệnh lý, chế độ dinh dưỡng điều trị cho bệnh nhân.
“Để phát triển dinh dưỡng điều trị bệnh viện, cần mở rộng mạng lưới đào tạo cử nhân dinh dưỡng tiết chế và có chính sách chế độ đãi ngộ, khuyến khích cán bộ khoa dinh dưỡng trong bệnh viện và đẩy mạnh nghiên cứu dinh dưỡng điều trị, xây dựng các hướng dẫn kỹ thuật, phác đồ dinh dưỡng lâm sàng tại bệnh viện” - báo cáo của Viện Dinh dưỡng đề xuất.
Báo cáo của Viện Dinh dưỡng cũng đề nghị Bộ Y tế phân biệt thực phẩm chức năng tràn lan thị trường với thực phẩm điều hòa và hồi phục dinh dưỡng bao gồm các loại vitamin, khoáng chất, thuốc chống biếng ăn ở trẻ và một số sản phẩm dinh dưỡng do Viện hợp tác nghiên cứu với Nhật Bản hiện nay.
Đã có thực phẩm khẩn cấp cho trẻ suy dinh dưỡng gày đét
Được biết, hiện nay, Viện đã có các sản phẩm thực phẩm dinh dưỡng, thực phẩm bảo vệ sức khỏe cho các đối tượng mắc các bệnh mạn tính không lây như: sản phẩm kiểm soát đường máu, mỡ máu; sản phẩm dành cho các đối tượng thừa cân, béo phì, đái tháo đường, tim mạch… cùng nghiên cứu sản xuất với chuyên gia Nhật.
Ngoài ra, Viện cũng đang nghiên cứu các sản phẩm dinh dưỡng điều trị trong bệnh viện phục vụ ngành khoa học dinh dưỡng lâm sàng, thay thế các sản phẩm ngoại nhập. Đồng thời nghiên cứu một số thực phẩm đặc thù cho các đối tượng lao động đặc biệt như: chiến sĩ hải quân, bộ đội đặc công, công an, công nhân các khu công nghiệp nặng…
Về xây dựng khẩu phần ăn, hiện tại, Viện Dinh dưỡng đã xây dựng xong thực đơn đi biển dài ngày và thực đơn trên bờ cho lữ đoàn tàu ngầm 189 Hải quân (đã cùng Viện Công nghệ mới thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Quân sự thử nghiệm thành công). Năm 2017 sẽ tiếp tục xây dựng thực đơn cho lực lượng Không quân bảo vệ tàu thuyền quân sự theo đề nghị của Bộ Tư lệnh Hải quân.
Về sản xuất các thực phẩm điều trị, Viện Dinh dưỡng đã sản xuất và thực hiện thành công thực phẩm cứu trợ khẩn cấp cho trẻ suy dinh dưỡng gày đét nặng khu vực miền Trung và Tây Nguyên với các sản phẩm Hebi food đặc thù để cứu trẻ khỏi tử vong.
Hiện Viện đang tiếp tục một số sản phẩm điều hòa lipid máu, huyết áp, axit uric máu… Viện phối hợp với Viện KHKT Quân sự sản xuất thử nghiệm viên nén tăng khả nang chịu đựng điều kiện thiếu oxy trong tàu ngầm.