Cần 11 tháng để trả hết nợ
Theo thống kê của Bộ LĐ,TB&XH giai đoạn 2007 - 2017, đã có hơn 1 triệu lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài, trung bình mỗi năm có 93 nghìn người xuất cảnh. Khoảng 1/3 trong số đó là phụ nữ và tỉ lệ lao động di cư là nữ vẫn đang tăng lên. Tuy nhiên, những số liệu này chỉ cho thấy tổng số lao động đi làm việc ở nước ngoài mà không nắm bắt được các trường hợp di cư lao động không theo các kênh chính thức.
TS Chang-Hee Lee, Giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) tại Việt Nam cho biết, đang tồn tại những thách thức lớn trong quản lý nhằm bảo đảm việc làm thỏa đáng cho NLĐ di cư. Trong nhiều trường hợp, NLĐ Việt Nam gặp khó khăn khi tiếp cận quyền của mình tại nơi làm việc. Các khoản nợ do phí, lệ phí di cư lao động quá cao có thể là trở ngại khiến họ không dám rời bỏ nơi làm việc có yếu tố bóc lột và bạo lực.
Bên cạnh đó, các khoản phí và chi phí cao cũng khiến cho NLĐ tìm kiếm các công việc được trả lương cao hơn trong thời gian ở quốc gia đến làm việc, để họ có cơ hội trả nợ. Thông thường, việc thay đổi công việc tại quốc gia tiếp nhận là không khả thi, nên NLĐ liều lĩnh chấp nhận trở thành lao động di cư không có giấy tờ hợp pháp.
NLĐ đi làm việc ở nước ngoài hiện có nhiều đóng góp mang ý nghĩa quan trọng đối với phát triển kinh tế Việt Nam. Ước tính, mỗi năm lượng kiều hối mà NLĐ Việt Nam gửi về khoảng 2,5 - 3 tỉ USD.
Một nghiên cứu do ILO và Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM) tiến hành vào năm 2017 cho thấy, NLĐ Việt Nam trở về từ Malaysia và Thái Lan đã phải trả phí xuất khẩu lao động cao hơn so các quốc gia khác trong khu vực. NLĐ Việt Nam cũng phải vay nợ nhiều nhất và cần nhiều thời gian nhất, họ cần tới 11 tháng để trả hết các khoản nợ của mình.
“Những khoản nợ này khiến NLĐ Việt Nam dễ trở thành nạn nhân của nạn buôn bán người và lao động cưỡng bức do những mưu toan lạm dụng, bóc lột hoặc lừa đảo, để thao túng người lao động” - Giám đốc ILO Việt Nam cho biết.
Nghiên cứu cũng chỉ ra 76% lao động di cư Việt Nam bị lạm dụng quyền lao động của mình trong thời gian làm việc tại Malaysia và Thái Lan. Đây là vấn đề nan giải do khả năng tiếp cận của NLĐ Việt Nam tới cơ chế khiếu nại, giải quyết đền bù tại Việt Nam và quốc gia điểm đến còn hạn chế, khiến cho việc phát hiện các trường hợp lao động cưỡng bức hoặc buôn bán người trở nên khó khăn.
Người sử dụng lao động phải trả phí
Lao động di cư Việt Nam chủ yếu làm việc trong lĩnh vực xây dựng, sản xuất, giúp việc gia đình, chăm sóc sức khỏe, nông nghiệp và ngư nghiệp. Trong đó, nghề giúp việc gia đình và đánh bắt cá được xem là dễ tổn thương nhất, do nơi làm việc bị cô lập và thường xuyên thiếu các biện pháp bảo vệ đầy đủ về mặt pháp lý.
TS Lee cho rằng, để bảo vệ NLĐ không bị lạm dụng, lừa đảo trong quá trình tuyển dụng và giảm chi phí di cư lao động, Chính phủ Việt Nam, các công ty tuyển dụng, công đoàn cần tiếp tục nỗ lực nhằm cải thiện hệ thống quản trị di cư lao động.
Không phải tất cả lao động Việt Nam đều có thể tiếp cận hệ thống tuyển dụng có đạo đức và công bằng. Việc chuyển từ mô hình chi phí di cư do lao động chi trả sang hệ thống mà người sử dụng lao động phải trả phí sẽ là một thách thức cho ngành tuyển dụng lao động Việt Nam.
Vấn đề cho thấy, sự cần thiết phải xây dựng hệ thống kết nối chặt chẽ hơn giữa khung pháp lý về lao động và hình sự… “Việc sửa đổi Luật 72 về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là cơ hội để rà soát lại các chính sách về di cư lao động, tăng cường các quy định và giám sát các thông lệ tuyển dụng nhằm bảo vệ NLĐ tốt hơn, chống lại tình trạng lao động cưỡng bức và nạn buôn bán người, tăng cường những đóng góp của lao động di cư vào phát triển kinh tế” - TS Lee chia sẻ.