Những công dân đặc biệt ở bản
Cách trung tâm huyện Điện Biên Đông gần 50km, xã vùng cao Tìa Dình (tỉnh Điện Biên) nằm biệt lập, với 2/3 ranh giới tiếp giáp với tỉnh Sơn La. Do cách trở giao thông, đồi núi chia cắt, dân cư phân tán... nên vùng đất này “sở hữu” nhiều cái nhất trong huyện: Nghèo nhất, xa nhất, đường đi khó khăn nhất, tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới quốc gia thấp nhất...
Từ ngã ba trung tâm huyện đi xã Mường Luân, rẽ lên con đường đất độc đạo dài hơn 20km, với những “rãnh trâu” dọc ngang mới tới được Tìa Dình. Vào ngày mưa, nơi đây gần như bị cô lập. Những chiếc xe tháo hết gác đờ bu, chắn bùn, hai lốp trước và sau đều quấn xích chiếm phần đa. Mà theo nhiều người dân chia sẻ thì đây là sự lựa chọn “tối ưu” nhất.
Giao thông liên bản ở Tìa Dình đa phần là đường đất nên việc đi lại của giáo viên vô cùng vất vả. Ảnh: NTCC. |
“Giao thông khó khăn, cách trở thế nên giáo viên lên đây giảng dạy thì chỉ có thể ở lại cả tuần, thậm chí cả tháng, năm, chứ chẳng thể nào mà đi – về trong ngày, dù là trung tâm huyện”, thầy Tuyển nói.
Bởi vậy nên theo thầy Tuyển chia sẻ, 100% giáo viên nhà trường đều ở lại địa bàn, cùng chung cảnh ăn, ở, sinh hoạt thiếu thốn như bà con. Nhiều thầy cô còn mua đất, dựng nhà, nhập khẩu, cho con học tại chỗ và chính thức trở thành dân bản. Chỉ có điều, trong mắt bà con thì thầy cô là những công dân đặc biệt.
“Đặc biệt ở đây không phải vì có cuộc sống tốt hơn, mà bởi những điều mang lại cho bà con. Không chỉ đơn giản là đưa bọn trẻ đến lớp, dạy chúng cái chữ mà giáo viên còn chăm sóc từ bữa ăn, giấc ngủ, rèn nề nếp, kỹ năng sống… Phụ huynh giao con đến trường là cứ thế yên tâm lên nương cả ngày. Chính vì thế nên trong nhà, trong bản có việc bà con đều mời thầy cô tham dự”, thầy Tuyển tâm sự.
May mắn sinh ra, lớn lên, rồi lại trở về địa phương công tác, nên thầy giáo Vàng A Dà hiểu hơn ai hết sự đặc biệt này. Thầy kể, sau khi tốt nghiệp THPT, thầy nhận được nhiều sự khuyên can của người trong bản là nên ở nhà, đi làm kiếm tiền phụ giúp gia đình.
Tập thể giáo viên Trường PTDTBT Tiểu học Tìa Dình. Ảnh: NTCC. |
Thế nhưng, cứ nghĩ ở nhà rồi lại “bán mặt” cho mảnh nương cả đời. Không chỉ khổ bố mẹ mà cả vợ con sau này cũng không khấm khá hơn được, nên thầy quyết định theo đuổi ngành Sư phạm. Tốt nghiệp ra trường, thầy Dà trở về quê hương làm giáo viên trong niềm tự hào của gia đình và sự nể phục của bà con dân bản.
Đứng trên bục giảng ngay tại quê nhà, dạy những đứa trẻ con em địa phương, thầy Dà cũng tự tin hơn. Song điều thầy cảm nhận rõ nét nhất chính là bà con đã có ánh nhìn khác với mình. Nhiều gia đình, khi có việc quan trọng, thậm chí còn tìm thầy tâm sự và xin ý kiến đóng góp. Đặc biệt, mỗi năm trôi qua, số học sinh mạnh dạn nói lên ước mơ về nghề nghiệp ngày một nhiều hơn, trong đó có nghề giáo.
“Như năm học vừa rồi, lớp tôi chủ nhiệm cũng có một học sinh nữ. Ban đầu em rất rụt rè, không chịu tiếp xúc với người lạ. Nhưng sau một thời gian thì cởi mở dần, hăng hái trong học tập. Cuối năm, khi có kết quả khá, em mới về khoe với gia đình và bảo lớn lên muốn đi dạy học như thầy Dà. Chưa biết chặng đường sau sẽ thế nào, nhưng chí ít thì tôi cũng cảm thấy hạnh phúc vì có thể làm động lực, mục tiêu phấn đấu cho học sinh”, thầy Dà nói.
Lấy mình làm…gương
Thầy, cô chăm sóc và hướng dẫn học sinh từ bữa ăn, giấc ngủ và việc sinh hoạt, vệ sinh cá nhân hàng ngày. Ảnh: NTCC. |
Là người bản địa với nhiều thuận lợi, song theo thầy Dà không phải tự nhiên mà có được tình cảm quý mến và sự coi trọng của học sinh, phụ huynh như vậy. Trước đây, việc vận động học sinh ra lớp, duy trì sĩ số hay tỷ lệ chuyên cần… luôn là “bài toán khó” với mỗi giáo viên.
“Vì phụ huynh chưa hiểu hết được giá trị của việc học, những quyền lợi khi bọn trẻ đến trường… mà chỉ nghĩ con đi học thì sẽ mất nguồn lao động, trông em… Hễ nhà có việc là cho nghỉ. Mỗi lần thầy cô đến, họ đều tìm lý do để từ chối hoặc không tiếp. Thế nhưng, tôi cứ lấy mình ra làm tấm gương người thật việc thật để giải thích cho bà con. Nếu ngày ấy bố mẹ tôi cũng cho nghỉ, thì liệu bây giờ có được như thế? Vậy là bà con nghe ra”, thầy Dà bộc bạch.
Tương tự, theo thầy giáo Thào Bá Lử thì mỗi thầy cô trong trường đều được quán triệt quan điểm “nêu gương” trong cả dạy học và cuộc sống. Thầy Lử là người “có tiếng” với các thế hệ học sinh nhà trường thông qua những tiết học “thoải mái”.
“Tôi cho rằng tâm lý có vai trò quan trọng quyết định việc các em có chủ động tiếp cận kiến thức hay không. Vì thế, điều đầu tiên tôi làm mỗi khi lên lớp, tiếp xúc với học sinh là cười thật tươi. Mọi rào cản từ sự e dè, lo sợ sẽ được xóa bỏ để các em tự tin bước vào giờ học”, thầy Lử nói.
Mỗi thế hệ học sinh trưởng thành lại tiếp thêm niềm tin của người dân với thầy cô ở Tìa Dình. Ảnh: NTCC. |
Cũng theo thầy Lử, mặc dù còn nhiều khó khăn, song hiện nay hệ thống công nghệ thông tin đã bắt đầu phát triển ở địa bàn. Học sinh có nhiều điều kiện, cơ hội tiếp cận thông tin, kiến thức từ nhiều nguồn, nhất là internet. Tuy nhiên, trong đó bao gồm cả thông tin xấu, độc. Do vậy, mỗi thầy cô trước tiên phải tự học, nắm bắt thành thạo để đưa ra những định hướng, giúp học sinh biết được đúng sai, tránh những tác động tiêu cực từ công nghệ.
Theo thầy Phó Hiệu trưởng cho biết, nhà trường trước đây có bảy điểm bản. Hàng năm tiếp nhận khoảng hơn 300 em theo học. Song vì số lượng học sinh tại một số điểm ít, nên từ năm học 2020 – 2021 có hai điểm phải bố trí cho học sinh ra trung tâm từ lớp 1. Với gần 50% ở nội trú, nhiều em phải xa gia đình khi còn quá nhỏ, nên việc tự lập trong sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn.
“Học sinh những ngày đầu về trường đều chưa biết và chưa có bất cứ nề nếp ăn ở, sinh hoạt tập thể nào. Nhất là các em lớp 1, còn nhút nhát, ngại tiếp xúc người lạ. Bởi vậy, ngoài giờ lên lớp, thầy cô đều “kín lịch” tại các phòng nội trú. Đặc biệt là thời gian đầu, giáo viên phải làm mẫu, hướng dẫn tỉ mỉ để các em quan sát, nhận biết và làm theo”, thầy Tuyển chia sẻ.
Đơn cử như từ việc đánh răng, rửa mặt ra sao; gội đầu như thế nào… thầy cô phải trực tiếp thực hiện cho một vài học sinh. Các bạn khác cùng theo dõi, thực hành. Sau khi có nề nếp, thầy cô mới chuyển qua giai đoạn giám sát, nhắc nhở và giáo dục các kỹ năng mềm trong cuộc sống, như: Tự bảo vệ bản thân trước người lạ, bạo lực, nguy cơ đuối nước, tai nạn thương tích, ma túy, tệ nạn xã hội, tảo hôn…
Ông Cháng A Lầu, Phó Chủ tịch UBND xã Tìa Dình cho biết: “Hiện nay Trường PTDTBT Tiểu học Tìa Dình có gần 40 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Trong đó gần 20 người là đảng viên đang sinh hoạt tại địa bàn. Chúng tôi đánh giá cao các thầy cô trong trường. Nhất là những người đã, đang khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm bán trụ địa bàn để đảm bảo công tác giáo dục tại địa phương. Mỗi năm nhà trường đã huy động 100% trẻ 6 tuổi vào lớp 1, với tỉ lệ học sinh hoàn thành Chương trình Tiểu học tại chỗ đạt trên 95% trở lên”.