Sau khi hết Tết, trong khoảng thời gian từ mùng 3 đến mùng 7, các gia đình sẽ tiến hành cúng hóa vàng để đưa tiễn ông bà. Tuy nhiên, khoảng thời gian từ mùng 3 đến mùng 7 là của trước đây.
Ngày nay, chúng ta bận rộn hơn nên khoảng thời gian cúng hóa vàng cũng được linh động hơn. Trong lễ cúng này sẽ có phần khác biệt đôi chút so với khi cúng các ngày bình thường. Gia chủ sẽ tiền hành hóa vàng – tức là đốt các giấy tiền, vàng mã và một số vật dụng khác. Việc hóa vàng được thực hiện khi nén nhang cúng ở bàn thờ ông bà tổ tiên sắp cháy hết.
Mâm cỗ hoá vàng cơ bản có đầy đủ ‘giò – nem – ninh – mọc’ cùng với bánh chưng, gà luộc, xôi. Gà luộc trong mâm hoá vàng phải là gà trống to, chắc, có đôi chân đẹp.
Sau 3 ngày ăn nhiều đồ nếp và thịt, trong mâm cúng hoá vàng, các bà nội trợ thường làm thêm các món chống ngấy như: dưa hành, nộm, các món cuốn, canh cá… tuỳ vào điều kiện của mỗi gia đình. Lễ vật dâng cúng hoá vàng gồm có: hương, hoa, ngũ quả, trầu cau, rượu, đèn nến, bánh kẹo.
Sau khi cúng xong, gia chủ có thể đốt vàng mã. Nhiều người cho rằng càng đốt nhiều vàng mã thì càng thể hiện lòng thành kính dâng lên tổ tiên. Về điều này, GS Ngô Đức Thịnh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam cho rằng cách hiểu như vậy là hoàn toàn sai.
Vàng mã chỉ nên mua ở mức tượng trưng. Việc đốt quá nhiều vàng mã không chỉ gây lãng phí tiền của một cách không cần thiết, mà còn gây ảnh hưởng đến môi trường. Khi hóa vàng, gia chủ phải hóa của gia thần trước rồi mới đến phần vàng mã của tổ tiên để không nhầm lẫn.
Đặc biệt, phần vàng mã dành cho người mới mất trong năm thì sẽ hóa cuối cùng. Sau khi đốt vàng mã, con cháu tề tựu đông đủ, cùng nhau dùng bữa cơm thân mật, vui vẻ, kết thúc những ngày Tết và bắt đầu trở lại với công việc.