Đồng bằng sông Cửu Long: Giải pháp nào ứng phó với biến đổi khí hậu?

GD&TĐ - Ngập ở vùng đô thị đang là một phần trong câu chuyện biến đổi khí hậu với nguyên nhân chủ yếu do sụt lún đồng bằng, và trong tương lai sẽ còn nghiêm trọng hơn.

Đồng bằng sông Cửu Long mùa nước nổi
Đồng bằng sông Cửu Long mùa nước nổi

Nước “bủa vây” vựa lúa

Những trận ngập lịch sử tại vùng hạ nguồn Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mới đây đã cho thấy rõ những tác động nặng nề của biến đổi khí hậu (BĐKH). Nhưng nghiêm trọng hơn, ở đó, những hệ lụy từ “nhân tai” đang dần lộ rõ: Mực nước lũ hằng năm vẫn ở mức xấp xỉ, nước biển dâng do BĐKH chỉ vài milimet mỗi năm, nhưng mức độ ngập thì cứ tăng đều!

Từ những ngày đầu tháng 10, hàng loạt tuyến đường nội ô TP Cần Thơ rơi vào tình trạng ngập nghiêm trọng. Nước triều đo được là 2,21m tại trạm sông Hậu vượt báo động 3 tới 0,31m. Đây được xem là mức triều kỷ lục từ trước đến giờ, và dự báo đỉnh triều có thể lên tới 2,20 - 2,25m (cao hơn báo động 3 tới 0,30 - 0,35m).

Mức độ rủi ro thiên tai do triều cường có thể đạt cấp độ 3. Các vùng lân cận như Vĩnh Long, Sóc Trăng… cũng bị ngập nghiêm trọng từ nội ô ra tới quốc lộ, ngập sâu trong từng con hẻm, nước nhấn chìm cả tuyến huyết mạch Quốc lộ 1A đoạn Cần Thơ - Vĩnh Long và đoạn Hậu Giang - Sóc Trăng, gây ảnh hưởng nặng nề đến việc đi lại và làm đảo lộn cuộc sống của hàng vạn người dân.

Hiện nay, nước lũ sông Mê Kong đang giảm, mực nước đo được tại Tân Châu vào ngày 8/9 là 3,61m, thấp hơn trung bình nhiều năm là 3,95m. Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu sinh thái ĐBSCL, phân tích: “Mực nước ở Tân Châu đang thấp hơn trung bình nhiều năm khoảng 3cm, do đó chuyện ngập ở Cần Thơ và các đô thị lân cận có thể loại trừ yếu tố do lũ dâng cao.

Hiện nay, chúng ta đang bị ảnh hưởng bởi con nước rong (là con nước lớn xuất hiện hai lần vào ngày 18 và 30 âm lịch hằng tháng theo chế độ bán nhật triều). Trong trường hợp này, nước thủy triều phía biển dâng cao, gặp nước lũ sông Mê Kong đang xuống sẽ dội lên làm tăng mực nước và gây ngập ở vùng như: Cần Thơ, Vĩnh Long, Hậu Giang…”.

ĐBSCL hằng năm nhận 475 tỉ m3 nước từ sông Mê Kong, cùng với lượng mưa hằng năm là 1.400 - 2.000mm, nước dồi dào vô cùng. Tuy nhiên, dù nước khắp nơi, nhưng không sử dụng được, do tình trạng ô nhiễm đã đến hồi báo động. Mỗi năm các sông rạch phải gánh lấy chất thải từ 3 triệu tấn thuốc trừ sâu từ nền nông nghiệp lạc hậu, thâm canh, chạy theo sản lượng mà không chú trọng chất lượng. Đó là chưa kể có quá nhiều công trình cản trở dòng chảy, khiến các sông rạch không thể tự làm sạch mình. Nước sông mấy chục năm trước từ chỗ có thể uống được, nay đến rửa tay người dân cũng không dám.

Từ những ngày đầu tháng 10, hàng loạt tuyến đường nội ô TP Cần Thơ rơi vào tình trạng ngập nghiêm trọng
Từ những ngày đầu tháng 10, hàng loạt tuyến đường nội ô TP Cần Thơ rơi vào tình trạng ngập nghiêm trọng

Khi nước mặt không dùng được, nhà nhà đã sử dụng nước ngầm. Toàn vùng ĐBSCL hiện có hàng trăm nghìn giếng khoan khai thác nước ngầm do người dân tự đầu tư và hàng trăm trạm cấp nước tập trung. Ước tính, tổng lượng nước ngầm khai thác toàn vùng trên dưới 1 triệu m3/ngày. Tình trạng khai thác nước ngầm tràn lan, quá mức đã khiến nguồn nước bị suy giảm, đặc biệt là gây ra tình trạng sụt lún ngày càng nghiêm trọng.

Theo nghiên cứu của Trường ĐH Utrecht (Hà Lan), trong 25 năm (1991 - 2016), ĐBSCL đã bị sụt lún 18cm. Đây chỉ là mức bình quân, và cá biệt có những nơi đã lún trên 30cm như Sóc Trăng, Tân An (Long An)… Ông Kỷ Quang Vinh, Chánh văn phòng công tác BĐKH TP Cần Thơ cho biết: Mức độ sụt lún đất ở ĐBSCL hiện dao động trong khoảng 2 - 4 cm/năm do khai thác nước ngầm quá mức. Nghiêm trọng hơn, các tầng nước ngầm chúng ta sử dụng hầu như đã cạn kiệt, xuống mức rất thấp.

“Chúng ta nói rất nhiều về nước biển dâng, thực tế chỉ khoảng 3mm/năm, đó là một quá trình từ từ, nó không đáng sợ bằng tình trạng sụt lún đang diễn ra nghiêm trọng hơn gấp 10 lần. Do vậy, việc sụt lún đáng ra phải được xem là khẩn cấp gấp 10 lần so với nước biển dâng. Nguyên nhân số 1 là do nước ngầm sụt giảm, nên phải hạn chế khai thác, phục hồi sông ngòi đặt trong những bài toán cân bằng sinh thái”, Thạc sĩ Thiện cho hay.

Theo các chuyên gia, trong số những nguyên nhân gây ngập, có nguyên nhân do tình trạng đê bao khép kín. Tại một số nơi đồng ruộng hay vườn cây ăn trái, các sông rạch với hai bên là hai con lộ kết hợp đê bao ngăn nước. Nước trong sông rạch của những “miệt vườn” này chỉ chảy quanh quẩn bên trong như là “máng xối” mà không vào trong ruộng đồng. Nước không phân chia được, buộc phải dâng cao và gây ngập ở những nơi khác.

Cần một nền nông nghiệp thông minh

Một nền nông nghiệp thâm canh, nặng về lượng, yếu về chất đang gây ra những hệ lụy kéo dài. Chuyển đổi sang nền nông nghiệp thông minh là giải pháp tất yếu, không chỉ giải quyết bài toán môi trường, thích ứng BĐKH, mà xa hơn là mở hướng đi cho một nền kinh tế xanh, bền vững.

Thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện - chuyên gia nghiên cứu sinh thái ĐBSCL, cho biết: Thực tế mỗi năm ĐBSCL sản xuất ra 25 triệu tấn lúa nhưng xuất khẩu hơn một nửa. Nếu tiếp tục thâm canh liên tục như vậy, sau khoảng 20 - 25 năm, sức sản xuất của đất suy giảm, an ninh lương thực sẽ bị đe dọa. Hơn nữa, ngày nay khái niệm an ninh lương thực cần đi kèm với an ninh dinh dưỡng, tức là tính đến các thành phần thực phẩm khác, chứ không chỉ có gạo. Do vậy, tư duy an ninh lương thực cần phải thay đổi từ việc chú trọng số lượng chuyển sang chất lượng nông nghiệp và làm kinh tế nông nghiệp.

ĐBSCL đang đối mặt với tình trạng ngập nước và sụt lún đất
ĐBSCL đang đối mặt với tình trạng ngập nước và sụt lún đất

Theo các chuyên gia, tư duy chiến lược trong phát triển nông nghiệp vùng ĐBSCL là giảm thâm canh, tăng chất lượng, tăng giá trị thông qua chế biến và chuỗi giá trị, vươn tới thị trường giá trị cao. Cùng với việc xem nước mặn, nước lợ cũng là tài nguyên thì nên có sự tính toán lợi hại để tận dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên này, trong đó có việc phục hồi sông ngòi để giảm sử dụng nước ngầm, giảm sụt lún.

Quan trọng hơn, những ngành công nghiệp nặng, lạc hậu không nên phát triển tại vùng ĐBSCL, mà thay vào đó là công nghiệp phục vụ nông nghiệp chuyển hướng sang xanh, sạch và bền vững. Bên cạnh đó, phải thay đổi tư duy nông nghiệp từ tăng gia sản xuất sang làm kinh tế, chú trọng chất lượng, không còn áp lực phải canh tác suốt năm, giảm lượng phân bón, tăng giá trị sản phẩm.

GS-TS Võ Tòng Xuân nhấn mạnh về nền nông nghiệp thông minh và cho biết: Đã qua rồi thời kỳ cả nước ai ai cũng lo cho an ninh lương thực, nay ta sản xuất dư thừa để xuất khẩu 7 - 8 triệu tấn gạo/năm. Nhưng nông dân trồng lúa đã 40 năm mà vẫn là những người nghèo. Nền nông nghiệp phải đổi mới tư duy làm kinh tế, chọn lựa hướng sản xuất và tìm đầu ra cho các hướng đó thế nào để có giá trị cao hơn mà không tiêu xài quá nhiều nước ngọt - tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo.

Trong đó, tư duy về nước mặn là kẻ thù, phải ngăn mặn, không còn hợp thời này nữa. Phải coi nước mặn là bạn, giúp nông dân ven biển làm giàu với tôm, cua... một cách bền vững hài hòa thiên nhiên. Những vùng theo hệ thống lúa - tôm của Sóc Trăng hiện nay được giàu có là nhờ trồng lúa rất thành công trong mùa mưa và sau khi dứt mưa thì cũng vừa gặt lúa xong, liền cho nước mặn vào nuôi tôm. Đến mùa mưa tới, nông dân trở lại trồng lúa. Theo GS-TS Võ Tòng Xuân, phải nghiên cứu và phát triển theo chuỗi giá trị nông nghiệp theo nhu cầu của thị trường, phát triển liên ngành và đa ngành, và phải làm sao xây dựng những chính sách liên kết hiệu quả.

Theo quy hoạch đến năm 2020, tổng diện tích trồng lúa chuyển đổi sang các cây trồng khác trong toàn vùng ĐBSCL là hơn 200.000ha. Hiện nay, nhiều mô hình nông nghiệp xanh, hiệu quả đã được áp dụng phổ biến tại nhiều địa phương như: Mô hình trồng lúa - nuôi tôm, trồng lúa - nuôi cá, trồng lúa chịu mặn. Đó đều là những mô hình sản xuất thông minh, thân thiện với môi trường, đặc biệt là thích ứng với BĐKH. Những mô hình đó là cơ sở để nhân rộng, hướng đến một nền nông nghiệp phát triển bền vững…

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ