Đối sánh trung bình điểm thi: Nắm bắt mức độ phù hợp với mục tiêu giáo dục

GD&TĐ -  Từ năm 2020 đến nay, Bộ GD&ĐT thực hiện đối sánh chỉ số trung bình điểm thi 9 môn Kỳ thi tốt nghiệp THPT giữa các địa phương trong cả nước.

Thí sinh tham dự Kỳ thi tốt nghiệp THPT. Ảnh: Thế Đại
Thí sinh tham dự Kỳ thi tốt nghiệp THPT. Ảnh: Thế Đại

Việc đối sánh này có thể gây ra áp lực, nhưng cũng là một chỉ báo tốt giúp địa phương, trường học biết được vị trí của mình và cũng như nguyên nhân tạo nên thành công hay hạn chế của đơn vị nhằm không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục.

Có nhiều loại đối sánh

Việc đối sánh kết quả thi tốt nghiệp THPT nhiều năm qua đã giúp cho cơ sở giáo dục, địa phương và xã hội dần hiểu được mục tiêu, phương pháp đối sánh. Đối sánh có ba mục tiêu quan trọng: Hiểu rõ hiện trạng của chính mình; Xác định khoảng cách giữa mình và các chuẩn khách quan bên ngoài mà mình muốn đạt; Học hỏi những phương pháp, giải pháp thành công tốt nhất từ đơn vị khác triển khai tại đơn vị mình.

Có 3 phương pháp cơ bản. Đầu tiên là đối sánh trắc lượng. Đây là phương pháp sử dụng để so sánh, đối chiếu sản phẩm hay dịch vụ của một đơn vị với các đơn vị khác trong cùng hệ thống hoặc ngoài hệ thống. Ví dụ như tỷ lệ giáo viên (GV) đạt chuẩn, tỷ lệ học sinh (HS) tốt nghiệp, điểm thi từng môn hoặc trung bình điểm các môn thi kỳ thi THPT...

Kết quả trắc lượng vừa dễ hiểu, vừa tạo điều kiện so sánh chính xác giữa đơn vị này với đơn vị khác tại một thời điểm (gọi đối sánh ngang hàng). Ví dụ, đối sánh trung bình điểm thi 9 môn của các địa phương trong từng năm. Hoặc đối chiếu, so sánh của một đơn vị nhưng ở những thời điểm khác nhau (gọi là đối sánh dọc). Chẳng hạn, đối sánh thứ hạng trung bình điểm thi 9 môn của một địa phương trong nhiều năm để biết xu hướng chất lượng giáo dục của một địa phương đó trong một giai đoạn.

Kế đến, là đối sánh chẩn đoán. Phương pháp đối sánh này bổ sung cho đối sánh trắc lượng, nhằm xác định những chỗ còn yếu của đơn vị. Nó không chỉ so sánh rời rạc các chỉ số định lượng giữa các đơn vị, mà còn đòi hỏi người tham gia thực hiện có cái nhìn tổng hợp về toàn bộ hoạt động từ đầu vào đến kết quả đầu ra nhằm xác định nguyên nhân gây ra hạn chế cũng như khoảng cách so với mục tiêu của đơn vị, để có giải pháp cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục.

Thứ ba, đối sánh qui trình, là đối sánh cao nhất, nhằm học hỏi từ các đối tác hay đơn vị khác, tìm ra giải pháp và vạch lộ trình đưa đơn vị đến đích đã đặt ra. Thực tiễn cho thấy, một trường học hay địa phương muốn cải tiến chất lượng đều phải dựa trên các qui trình như: Qui trình dạy và học, qui trình kiểm tra, đánh giá, qui trình ôn thi tốt nghiệp… Chúng ta so sánh để tìm ra qui trình tốt nhất, phù hợp nhất cho đơn vị mình.

Thí sinh tham dự Kỳ thi tốt nghiệp THPT điểm thi THPT Trần Phú. Ảnh: Thế Đại

Thí sinh tham dự Kỳ thi tốt nghiệp THPT điểm thi THPT Trần Phú. Ảnh: Thế Đại

Mức độ phù hợp đầu ra

Mục đích Kỳ thi tốt nghiệp THPT được xác định là đánh giá kết quả học tập của người học theo mục tiêu giáo dục của chương trình giáo dục cấp THPT; lấy kết quả để xét tốt nghiệp THPT; đánh giá chất lượng dạy, học của nhà trường, công tác chỉ đạo của cơ quan quản lý giáo dục; cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp có thể sử dụng kết quả thi để tuyển sinh.

Mục tiêu cấp THPT của chương trình giáo dục hiện hành (chương trình năm 2006) là: “Hoàn thiện học vấn phổ thông, có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động”.

Theo đó, HS hoàn thành chương trình THPT phải nắm vững kiến thức, kỹ năng của các môn học, các môn học đều bình đẳng, không có môn chính, môn phụ. Văn, Toán, Ngoại ngữ là những công cụ quan trọng, cần thiết đối với HS nên là 3 môn thi bắt buộc. Để tránh tình trạng học lệch, từ năm 2013 trở về trước 3 môn thi khác do Bộ GD&ĐT lựa chọn sau 31/3 hằng năm. Điều này gây ra nhiều áp lực cho HS.

Từ năm 2017, ngoài 3 môn thi bắt buộc, HS được lựa chọn một trong 2 tổ hợp KHXH (Sử, Địa, GDCD) hoặc KHTN (Lý, Hóa, Sinh) để thi. Đây là phương thức phân hóa HS theo định hướng nghề nghiệp theo tinh thần của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và phù hợp với xu hướng thế giới.

Đề thi có phạm vi kiến thức, kỹ năng thuộc chương trình cấp THPT, với ma trận 4 mức độ nhận thức: Nhận biết, thông hiểu, vận dụng và vận dụng cao. Những HS nắm vững kiến thức, kỹ năng môn học, biết vận dụng để giải quyết vấn đề sẽ làm bài thi tốt, đạt điểm cao, ngược lại, sẽ không làm tốt bài thi, đạt điểm thấp.

Trung bình điểm thi 9 môn của một đơn vị (trường học, địa phương) là điểm bình quân của trung bình từng môn: Văn, Toán, Ngoại ngữ, Lý, Hóa, Sinh, Sử, Địa, GDCD của đơn vị đó. Chỉ số này nhằm đánh giá mức độ phù hợp với mục tiêu toàn diện “hoàn thiện học vấn phổ thông” của HS một đơn vị.

Đơn vị nào có trung bình điểm thi 9 môn cao, nghĩa là đầu ra HS của đơn vị đó có “mức độ phù hợp” với mục tiêu giáo dục cao, ngược lại nếu trung bình điểm thi 9 môn thấp, HS của đơn vị đó có “mức độ phù hợp” với mục tiêu thấp. Như vậy, đối sánh trung bình điểm thi 9 môn nhằm “đánh giá kết quả học tập của người học theo mục tiêu của chương trình giáo dục” của từng đơn vị, trong từng năm.

Thí sinh xem thông tin Kỳ thi tốt nghiệp THPT 2022. Ảnh: ITN

Thí sinh xem thông tin Kỳ thi tốt nghiệp THPT 2022. Ảnh: ITN

Biết được xu hướng chất lượng

Giai đoạn 2017 – 2019, Bộ GD&ĐT đã so sánh xếp hạng các địa phương theo điểm trung bình tốt nghiệp, có sự tham gia 50% của điểm trung bình cả năm lớp 12 nên chưa phản ánh đứng thực chất chất lượng đầu ra HS. Chẳng hạn, năm 2019, nếu so sánh điểm xét tốt nghiệp thi Nam Định đứng đầu, nhưng khi so sánh trung bình 9 môn thi thì Bình Dương đứng đầu cả nước.

Vì vậy, từ năm 2020, Bộ GD&ĐT thực hiện đối sánh trung bình điểm thi 9 môn của các đia phương với nhau. Qua kết quả đối sánh ba năm (2020 – 2022) cho thấy, cả nước chia làm 3 nhóm địa phương: Nhóm các địa phương có cải thiện thứ hạng vượt bậc; nhóm địa phương có thứ hạng ổn định và nhóm địa phương tụt hạng khá rõ.

11 địa phương tăng hạng vượt bậc

Các địa phương này có thứ hạng năm 2022 tăng so với năm 2020 (tăng 10 bậc trở lên), gồm: Bắc Giang (năm 2020 xếp thứ 49, năm 2021 xếp thứ 22, năm 2022 xếp thứ 11), Tuyên Quang (50, 31, 18); Yên Bái (55, 41, 30); Hòa Bình (58, 62, 33); Bắc Ninh (26, 19, 6); Nghệ An (38, 34, 23); Hà Tĩnh (24, 18, 9); Quảng Ninh (48, 35, 34); Thanh Hóa (39, 32, 27); Lào Cai (28, 24, 17) và Sơn La (59, 59, 49). Đây là những địa phương có nhiều huyện miền núi, khó khăn nhưng đã có nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục.

36 địa phương thứ hạng ổn định

Đây là những địa phương có thứ hạng thay đổi không nhiều (tăng, giảm hạng trong phạm vi 10 bậc), gồm có: Phú Thọ (15, 10, 8); Vĩnh Phúc (9; 5; 2), Thái Bình (13; 12; 10), Hải Phòng (7; 11; 5), Nam Định (2; 2; 1), Ninh Bình (4, 3, 4); Hà Nam (5, 6, 7); Bình Dương (1, 1, 3); Bạc Liêu (8, 7, 14); TPHCM (6, 9, 13); An Giang (3, 4, 12); Vĩnh Long (13, 8, 19); Lạng Sơn (54, 48, 47); Quảng Bình (45, 49, 38); Quảng Ngãi (47, 50, 40); Hải Dương (21, 16, 15); Bình Định (27, 29, 21); Thái Nguyên (46, 43, 41); Cao Bằng (57, 61, 54); Tiền Giang (17, 14, 16); Thừa Thiên - Huế (29, 28, 29); Hưng Yên (35, 30, 35), Điện Biên (51, 56, 52); Lai Châu (56, 45, 57); Long An (22, 27, 26); Bến Tre (25, 17, 28); Hà Giang (60, 63, 63); Gia Lai (37, 36, 43); Ninh Thuận (52, 54, 58); Kiên Giang (43, 39, 50); Hà Nội (18, 25, 25); Kon Tum (36, 40, 44); Đắk Nông (53, 56, 61). Trong nhóm này có 12 địa phương từng lọt top 10, gồm Nam Định, Bình Dương, Hà Nam, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Hải Phòng, An Giang, Thái Bình, TPHCM, Bạc Liêu, Vĩnh Long.

16 địa phương tụt hạng

Là những địa phương năm 2022 tụt hạng khá rõ so với năm 2020 (giảm 10 bậc trở lên), gồm: Lâm Đồng (10, 12, 20); Quảng Trị (41, 55, 51); Cần Thơ (11, 15, 22); Đồng Tháp (14, 13, 26); Khánh Hòa (34, 47, 46); Hậu Giang (42, 51, 55); Bình Thuận (42, 51, 55); Cà Mau (31, 37, 45); Bà Rịa – Vũng Tàu (16, 20, 31); Bắc Kạn (23, 33, 39); Tây Ninh (20, 26, 36); Phú Yên (44, 58, 60); Đồng Nai (32, 38, 48); Trà Vinh (40, 52, 59); Sóc Trăng (30, 44, 53); Bình Phước (33, 36, 56). Phần lớn các địa phương này do dịch bệnh xảy ra nghiêm trọng và thiên tai lũ lụt nặng nề (Quảng Trị).

Cần đối sánh với nhiều chỉ số hơn

Mặc dù, chỉ số trung bình điểm thi 9 môn liên quan đến mục tiêu giáo dục toàn diện, nhưng đối sánh chỉ số này vẫn có một số hạn chế. Đó là, chất lượng giáo dục là cả một quá trình, không chỉ dựa trên một kỳ thi; dù là thi chung đề, chung thời gian, nhưng việc coi thi và chấm thi ở nhiều hội đồng khác nhau nên không tránh khỏi sự tác động chủ quan của con người. Tỷ lệ HS chọn KHXH và KHTN khác nhau, điểm thi các môn thuộc KHXH thường cao hơn KHTN (khoảng 2 điểm), trường học, địa phương có tỷ lệ HS thi tổ hợp KHXH cao có lợi thế về điểm hơn trường học, địa phương có tỷ lệ chọn tổ hợp KHTN cao.

Vì vậy, cần thực hiện đối sánh với nhiều chỉ số khác nhau như: Trung bình điểm thi 3 môn Văn, Toán, Ngoại ngữ, đối sánh thứ hạng từng môn thi và đối sánh chênh lệch giữa điểm học bạ và điểm thi để biết mức độ đánh giá HS thực chất của địa phương trường học. Chẳng hạn, Hà Nội là địa phương dẫn đầu cả nước về giáo dục, nhưng trong việc đánh giá HS vẫn chưa sát với chất lượng. Năm 2022, thứ hạng điểm học bạ các môn luôn ở tốp đầu, nhưng thứ hạng điểm thi một số môn thấp như: Hóa (thứ hạng học bạ: 1; thứ hạng điểm thi: 58); Sinh (1, 58); Lý (1, 28); Sử (2, 18); Địa (4, 37); Giáo dục công dân (5, 39); Ngữ văn (6, 19); Toán (5, 11) và Ngoại ngữ (2, 4).

Trong từng địa phương cần thực hiện đối sánh giữa các trường với nhau dựa trên nhiều chỉ số để các trường học biết được điểm mạnh, điểm yếu của mình, không ngừng cải tiến, nâng cao chất lượng giáo dục. Đối sánh là một qui trình mang tính tích cực, cung cấp các đo lường khách quan nhằm giúp cơ sở giáo dục đặt ra mục tiêu, phương hướng cải tiến, dẫn đến đổi mới trong giáo dục.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ