Tuy nhiên, để quy định đi vào cuộc sống, nhiều ý kiến cho rằng cần có hướng dẫn chi tiết, cơ chế hỗ trợ kỹ thuật, lộ trình phù hợp.
Chuẩn hóa quy trình, tăng minh bạch và ứng dụng công nghệ
Chia sẻ về dự thảo Thông tư, ông Huỳnh Văn Chương - Cục trưởng Cục Quản lý chất lượng (Bộ GD&ĐT), nhấn mạnh điểm mới quan trọng liên quan đến việc chịu trách nhiệm toàn diện của đơn vị trong tổ chức thi; đồng thời, yêu cầu các đơn vị đưa giải pháp tổ chức thi bảo đảm an toàn, khách quan, công bằng, nghiêm túc; phân công rõ trách nhiệm các bộ phận tham gia tổ chức thi; bảo mật đề thi trước, trong và sau các đợt tổ chức thi.
Dự thảo cũng tăng ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tổ chức thi; bổ sung quy định, quy trình xây dựng ngân hàng câu hỏi thi để tăng hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước.
Dự thảo Thông tư đồng thời cho phép các đơn vị liên kết để mở rộng quy mô tổ chức thi (có thể tổ chức thi ở nước ngoài); khuyến khích, hỗ trợ các cơ sở giáo dục Việt Nam thành lập phân hiệu, mở văn phòng đại diện hoặc triển khai chương trình giáo dục ở nước ngoài; cho phép các cơ sở giáo dục được tổ chức thi đánh giá năng lực tiếng Việt ở nước ngoài…
PGS.TS Nguyễn Văn Long - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngoại ngữ (Đại học Đà Nẵng), nhận định dự thảo Thông tư thể hiện xu hướng chuẩn hóa cao hơn, minh bạch, trách nhiệm rõ ràng hơn và ứng dụng công nghệ mạnh hơn trong tổ chức thi.
Từ thực tiễn triển khai, PGS.TS Nguyễn Văn Long cho rằng, những sửa đổi trong dự thảo tạo sự thống nhất, giảm chồng chéo, thuận tiện trong triển khai. Cụ thể, tích hợp hai chế định thi (ngoại ngữ và tiếng Việt) trong một văn bản giúp các trường đại học, trung tâm khảo thí không phải “đọc nhiều thông tư”, so sánh, giải thích chồng chéo giữa các văn bản. Điều này cần thiết khi trường vừa tổ chức thi ngoại ngữ, vừa tổ chức thi tiếng Việt cho người nước ngoài.
Bên cạnh đó, việc dự thảo nhấn mạnh ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số là phù hợp với xu hướng hiện đại hóa thi cử; cung cấp hình ảnh thí sinh trong quá trình thi để phục vụ xác minh sau này giúp giảm rủi ro giả mạo chứng chỉ, hoặc gian lận sau khi công bố kết quả.
Quy định cho phép liên kết, tổ chức thi ở nước ngoài là điểm mở có lợi, đặc biệt trường có mạng lưới đối tác quốc tế, nhu cầu tổ chức thi cho người Việt ở nước ngoài, hoặc sinh viên quốc tế. Trường có thể tận dụng cơ sở vật chất, quan hệ quốc tế, hoặc văn phòng đại diện nước ngoài để làm điểm thi.
Đồng tình với nhiều điểm mới trong dự thảo, ông Khuất Văn Thanh - Phó Hiệu trưởng phụ trách Trường Hữu nghị T78, cho rằng tích hợp quy định trong các thông tư về quy chế thi đánh giá năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam và quy chế thi đánh giá năng lực tiếng Việt theo Khung năng lực tiếng Việt dùng cho người nước ngoài là cần thiết. Việc này bảo đảm tính thống nhất, tạo thuận lợi hơn cho các đơn vị trong quá trình tổ chức thi và giảm thiểu số lượng văn bản quy phạm pháp luật cần ban hành.
Ông Khuất Văn Thanh đánh giá cao sửa đổi, bổ sung về phạm vi, đối tượng áp dụng, phù hợp với chức năng của các cơ quan hành chính Nhà nước và các đơn vị sự nghiệp giáo dục.
Trong đó, bổ sung đơn vị liên kết tổ chức thi tiếng Việt ở nước ngoài là điểm mới rất quan trọng, giúp thúc đẩy quá trình phổ biến tiếng Việt ra các nước, tạo hành lang pháp lý để các đơn vị nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thi đánh giá năng lực ngoại ngữ, tiếng Việt. Cấu trúc dự thảo Thông tư hợp lý, cách trình bày rõ ràng, dễ hiểu, thống nhất về thuật ngữ và cấu trúc, không có sự trùng lặp, mâu thuẫn.

Để bảo đảm tính khả thi
Bên cạnh những điểm mới phù hợp, cũng có một số vấn đề đặt ra cho các trường nếu quy định mới đi vào thực tiễn đời sống. Nhắc đến áp lực về nhân sự và chi phí, PGS.TS Nguyễn Văn Long cho rằng, việc đảm bảo 30 nhân sự chuyên môn (cho tiếng Anh) hoặc 20 người (cho ngoại ngữ khác/tiếng Việt) có thể là gánh nặng (về lương, đào tạo, cơ chế đãi ngộ).
Bên cạnh đó, các nhân sự phải được đào tạo ra đề, chấm nói, chấm viết, có năng lực tổ chức thi. Cùng đó, xây dựng ngân hàng đề, thử nghiệm, phân tích câu hỏi, tái biên soạn, kiểm định đòi hỏi nguồn lực tài chính, phần mềm khảo thí chuyên dụng, nhân lực phân tích dữ liệu. Nhiều trường chưa quen hoặc chưa có kinh nghiệm về việc này.
Cũng theo PGS.TS Nguyễn Văn Long, dù cho phép “dùng chung ngân hàng đề/câu hỏi giữa các đơn vị”, nhưng việc chia sẻ ngân hàng đề thi giữa các trường đòi hỏi quy chế quản lý rõ ràng, trách nhiệm bảo mật, quyền sở hữu trí tuệ, phân phối truy cập… Nếu không được quản lý tốt, có thể phát sinh lạm dụng, hoặc rò rỉ đề.
Ngoài ra là rủi ro công nghệ, an ninh mạng. Khi chuyển sang tổ chức thi số, nếu phần mềm khảo thí không an toàn, bị tấn công, bị lọt dữ liệu cá nhân/ảnh thí sinh/đề thi, thì hậu quả rất lớn. Các trường cần đảm bảo an toàn mạng, mã hóa, sao lưu, phân quyền truy cập nghiêm ngặt.
Thêm đó, nếu ngân hàng đề chưa thực sự lớn, quy định “câu hỏi đã dùng chỉ tái sử dụng sau tối thiểu 12 tháng” có thể gây thiếu đề cho các kỳ thi trong năm liên tiếp, đặc biệt nếu có nhiều đợt thi. Trường cần dự trù ngân hàng đề lớn hơn, phát triển liên tục.
Góp ý dự thảo, PGS.TS Nguyễn Văn Long đề xuất cơ chế chia sẻ ngân hàng đề giữa các đơn vị. Theo đó, quy định rõ quyền sở hữu, bản quyền, trách nhiệm bảo mật, chi phí sử dụng, phân quyền truy cập đối với ngân hàng đề khi nhiều đơn vị sử dụng chung.
Có thể xây dựng hệ thống trung tâm quốc gia hoặc mạng lưới ngân hàng đề quốc gia, nơi các trường thành viên có thể truy cập theo phân cấp (về mức độ truy cập, loại câu hỏi, đề mẫu). Đồng thời, quy định rõ quy trình kiểm định, phê duyệt câu hỏi mới, sửa đổi câu hỏi, loại bỏ câu hỏi cũ trong ngân hàng dùng chung.
Về chuẩn hạ tầng công nghệ và an ninh mạng, theo PGS.TS Nguyễn Văn Long, cần có hướng dẫn thực hiện Thông tư với yêu cầu “tiêu chuẩn kỹ thuật tối thiểu” đối với hệ thống thi. Cụ thể, xác định rõ yêu cầu đối với máy chủ (có sao lưu, mã hóa); phần mềm kiểm thử, bảo mật và giám sát thi (camera, khóa màn hình, giám sát mạng). Đồng thời, quy định trách nhiệm sao lưu dữ liệu, lưu trữ đề thi, bản ghi ảnh/video trong kỳ thi, bảo vệ dữ liệu cá nhân của thí sinh.
“Cũng cần cân nhắc mức độ tái sử dụng câu hỏi và đa dạng hóa đề thi. Quy định “câu hỏi đã dùng chỉ được tái sử dụng sau tối thiểu 12 tháng” là khá nghiêm. Tôi đề xuất xem xét bổ sung quy định “tái sử dụng có giới hạn đối với câu hỏi có độ khó thấp, hoặc các phần kiểm tra kỹ năng cơ bản”, miễn là đảm bảo không trùng câu hỏi nguyên vẹn giữa các đề thi liên tiếp. Những góp ý trên nhằm tăng tính khả thi, linh hoạt, bảo đảm công bằng và hỗ trợ các đơn vị khó khăn khi áp dụng”, PGS.TS Nguyễn Văn Long chia sẻ.
Góp ý dự thảo, ông Khuất Văn Thanh cũng đề xuất xem xét lại con số tuyệt đối “30 người” hay “20 người” và 100% phải có trình độ tối thiểu là thạc sĩ đối với tất cả các đơn vị, tổ chức. Lý do, việc đào tạo, bồi dưỡng tiếng Việt có đặc thù riêng.
Hiện nay, công tác đào tạo, bồi dưỡng tiếng Việt cho lưu học sinh Lào, Campuchia diện Hiệp định đang được giao cho hai trường: Hữu nghị T78 và Hữu nghị 80. Hai trường đều trực thuộc Bộ GD&ĐT, ngoài chức năng chuyên môn, còn giữ vai trò lớn trong thực hiện nhiệm vụ chính trị về công tác đối ngoại, công tác dân tộc trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo.
Đưa ra các con số tuyệt đối như trên có thể gây khó khăn cho nhà trường và một số đơn vị khác, do chưa phù hợp với quy mô đào tạo, bồi dưỡng và quy định về định mức giáo viên tại các cơ sở này.
“Theo tôi, đối với những trường đang thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng lưu học sinh nước ngoài về tiếng Việt, chỉ nên quy định tỷ lệ tối thiểu số giáo viên (giảng viên) có trình độ thạc sĩ trở lên. Ngoài ra, chúng tôi mong tiếp tục nhận được sự quan tâm của Bộ GD&ĐT trong quá trình triển khai thực hiện Thông tư, đặc biệt việc xây dựng phần mềm quản lý ngân hàng đề thi và thi tiếng Việt trên máy tính.
“Trên tổng thể, các sửa đổi trong dự thảo Thông tư đều tích cực, hợp với xu hướng hiện đại hóa, minh bạch hóa và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khả thi khi áp dụng, cần có lộ trình, hỗ trợ kỹ thuật, tài chính và hướng dẫn rõ ràng từ Bộ GD&ĐT và cơ quan khảo thí quốc gia”. - PGS.TS Nguyễn Văn Long