Công nghệ và trí tuệ nhân tạo đặt ra yêu cầu mới cho nguồn nhân lực

GD&TĐ - Lao động Việt Nam còn hạn chế về vận dụng AI, trình độ ngoại ngữ của phần lớn lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường trong giai đoạn mới.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh chia sẻ về yêu cầu của nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn mới. (Ảnh: Quốc Hải)
Bà Tôn Nữ Thị Ninh chia sẻ về yêu cầu của nguồn nhân lực Việt Nam trong giai đoạn mới. (Ảnh: Quốc Hải)

Ngày 1/3, bà Tôn Nữ Thị Ninh - Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TPHCM, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Liên minh châu Âu, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Quốc hội, đã có khái quát trên tại buổi đối thoại “Hạn chế và lợi thế của Việt Nam và người Việt trong việc xây dựng và hình thành nhân lực đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới”, do Trường Đại học Hoa Sen tổ chức.

Việt Nam đang đứng trước "thời vận" để khẳng định mình

Mở đầu buổi chia sẻ, Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TPHCM cho hay, nung nấu thường xuyên của bà là góp phần cho sự phát triển vươn lên của đất nước Việt Nam, cho hạnh phúc và phát triển của dân tộc.

Sau gần 50 năm hòa bình, con đường Việt Nam đã đi đang dẫn Việt Nam tới một “ngưỡng”, một “thời vận” để tự khẳng định mình với bản thân và với thế giới.

“Chúng ta phải tự tin mình đã lớn lên, mạnh lên, đã giỏi lên và hạnh phúc hơn. Cho nên mình phải tự khẳng định mình thì mới nói được cho thế giới, lưu ý được cho thế giới: Hãy nhìn Việt Nam đi! Có phải từ trong tro tàn chiến tranh đổ vỡ thì sau 50 năm đã trở thành một Việt Nam rất khác”, bà Ninh nói.

Theo bà Ninh kể, thủ trưởng cũ của bà ở Bộ Ngoại giao - Cố Thứ trưởng Lê Mai - thường xuyên tiếp xúc với các nhà báo quốc tế, đặc biệt là các nhà báo của Mỹ, đã có một câu nói: “Việt Nam không chỉ là tên cuộc chiến, nó còn là một đất nước, một dân tộc”.

“Thông điệp súc tích này nói lên cái gì? Đó là hãy đừng nhìn chúng tôi chỉ về quá khứ mà hãy nhìn về sự hứa hẹn tiềm năng của Việt Nam đang vươn ra và vươn lên”, bà Ninh nói.

Theo bà Ninh, trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) đang đặt ra những yêu cầu mới cho nhân lực, đòi hỏi sự đổi mới trong giáo dục và đào tạo.

Chủ tịch Quỹ Hòa bình và Phát triển TPHCM cũng nhấn mạnh rằng, bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn, yếu tố văn hóa cũng đóng vai trò quan trọng trong việc định hình một thế hệ trẻ có khả năng đối mặt và thích ứng với những thay đổi của xã hội.

"Thế hệ trẻ Việt Nam nên tận dụng cơ hội tiếp cận với các nền giáo dục phương Tây, đồng thời hòa nhập với văn hóa bản địa để tạo ra sự kết hợp hoàn hảo", bà Tôn Nữ Thị Ninh gợi ý.

Bà Tôn Nữ Thị Ninh cũng không quên động viên các bạn trẻ qua câu nói “Never give up – Kiên định không bao giờ từ bỏ” và sự lạc quan yêu đời của người Việt là chìa khóa giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn và nghịch cảnh trong công việc và cuộc sống.

Nhân lực Việt Nam đang thiếu gì trong giai đoạn mới?

Khái quát về những hạn chế của Việt Nam trong việc xây dựng và hình thành nhân lực đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, bà Ninh cho rằng, có một số điểm cần lưu ý.

Thứ nhất, thiếu cơ sở, trung tâm đủ quy mô và hiệu quả để đáp ứng đúng mức và kịp thời nhu cầu về nhân lực kỹ thuật và công nghệ (đặc biệt là liên quan đến bán dẫn và AI).

Thứ hai, cách thức dạy và học chưa đáp ứng đúng mức và hiệu quả yêu cầu của giai đoạn mới.

Cụ thể, chưa phát huy khả năng phân tích và tổng hợp, khả năng so sánh và đánh giá, tư duy phản biện, chưa cập nhật kiến thức hiểu biết theo xu thế hiện hành.

Chưa kể, lao động còn hạn chế về vận dụng AI, trình độ ngoại ngữ của phần lớn đội ngũ lao động chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường, kiến thức hiểu biết về thế giới còn hạn chế.

wa-1-9.jpg
Toàn cảnh buổi đối thoại “Hạn chế và lợi thế của Việt Nam và người Việt trong việc xây dựng và hình thành nhân lực đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới”. (Ảnh: Quốc Hải)

Cuối cùng, tinh thần thái độ và phương pháp làm việc của người lao động còn thiếu tự tin và chủ động trong quan hệ với cấp trên, thiếu cái nhìn tổng thể, hệ thống; lập luận và trình bày vấn đề thiếu logic, chặt chẽ và đặc biệt còn ít khi đề xuất sáng kiến, chủ trương.

Tuy vậy, chuyên gia này cũng khái quát thêm về những thuận lợi của Việt Nam, đó là: Chính sách đối ngoại linh hoạt của Việt Nam; Chủ trương, chính sách của Nhà nước trong thu hút FDI và thúc đẩy xuất khẩu (độ mở của nền kinh tế).

Đặc biệt, cục diện sản xuất và xuất nhập khẩu liên quan đến châu Á nói chung, Trung Quốc và Đông Nam Á nói riêng đang có những thay đổi tích cực hơn.

wa-1-23.jpg
Sinh viên hào hứng tham gia buổi đối thoại. (Ảnh: Quốc Hải)

“Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương. Thêm vào đó, quy mô thị trường lao động, mức độ đào tạo và chi phí nhân công của Việt Nam đang rất khả quan, lao động Việt Nam chăm chỉ, cầu tiến, cởi mở, có kỷ luật, tiếp thu nhanh… là những điểm cộng trong giai đoạn mới”, bà Ninh nói thêm.

AI đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay, chúng ta vẫn nặng về kiến thức, data dữ liệu đã có sẵn rồi thì đặt nặng vấn đề này để làm gì khi chỉ cần bấm là có. Trong khi đó, vai trò của con người và bộ óc con người là gì? Chúng ta phải đặt lại vấn đề và vì vậy càng khẳng định giáo dục Việt Nam cần phải tiến bộ hơn nữa về tư duy, phương pháp, cách tiếp cận”, bà Tôn Nữ Thị Ninh, chia sẻ.

TS Phan Thị Việt Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Hoa Sen cho hay, để hiện thực hóa các mục tiêu của Việt Nam, cụ thể thoát khỏi nước có mức thu nhập trung bình thấp vào năm 2025, đạt thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và thu nhập cao đến năm 2045, tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người khoảng 7% đến năm 2030, sự đột phá về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố then chốt.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng, thị trường lao động nước ta vẫn chưa theo kịp tốc độ và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tính thích ứng, chủ động, linh hoạt còn thấp, nhất là trước những biến động như đại dịch Covid-19 vừa qua.

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, tỷ lệ lao động Việt Nam có kỹ năng chuyên môn chưa đến 30% và chỉ 10% lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu trong bối cảnh nền kinh tế số.

“Mặc dù chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam có sự cải thiện trong những năm vừa qua, nhưng kỹ năng lao động Việt Nam được đánh giá còn nhiều hạn chế, chỉ xếp thứ 47 trên 60 thị trường lao động toàn cầu và xếp cuối cùng trong 11 quốc gia thuộc khu vực châu Á Thái Bình Dương.

Nguồn nhân lực Việt Nam được nhận định là vừa thừa, vừa thiếu. Thừa về số lượng nhân công giá rẻ nhưng lại thiếu lực lượng lao động tay nghề chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ còn chưa cao nên càng khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế”, TS Phan Thị Việt Nam nói.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ