Đánh giá nguồn lợi
“Nghiên cứu đánh giá hiện trạng, đề xuất giải pháp quản lý nguồn lợi thủy sản và xây dựng mô hình đồng quản lý nghề cá ven bờ huyện Cần Giờ - TPHCM” là nhiệm vụ do TS Thái Ngọc Trí và cộng sự, Viện Sinh học nhiệt đới TPHCM chủ trì thực hiện.
Theo TS Thái Ngọc Trí, Việt Nam có đặc trưng bờ biển trải dài 3.260 km và hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Vì vậy, hoạt động khai thác, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản diễn ra khá sôi động. Tài nguyên đa dạng sinh học, hệ sinh thái vùng cửa sông ven biển nói chung và nguồn lợi thủy sản nói riêng, có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn đa dạng sinh học.
Nguồn lợi thủy sản thủy sinh vật (ngoài cá) ở vùng biển ven bờ có liên quan mật thiết với các yếu tố môi trường hoá lý, sinh học và quần xã thực vật, thảm thực vật ven bờ cũng như các hệ sinh thái ở đây (hệ sinh thái thủy vực, hệ sinh thái rừng ngập mặn…).
Hiện nay, các mô hình quản lý, bảo vệ nguồn lợi thủy sản (NLTS) vùng biển ven bờ (khu vực Đồng bằng sông Cửu Long) chỉ mới được triển khai ở một số tỉnh Bến Tre, Sóc Trăng, Cà Mau. Nhóm nghiên cứu đề xuất thực hiện quản lý nguồn lợi thủy sản tại huyện Cần Giờ.
Kết quả nghiên cứu, khu hệ thực vật phù du và tảo bám ở các khu vực nghiên cứu phong phú và đa dạng. Trong đó, nhóm tảo silic chiếm ưu thế về thành phần loài, mật độ cũng như sinh khối.
Khu hệ thực vật phù du ở khu vực cửa sông và rừng ngập mặn có tính đa dạng hơn ở vùng biển ven bờ; ngược lại mật độ và sinh khối ở khu vực cửa sông, rừng ngập mặn thường thấp hơn ở vùng ven bờ.
Ở tất cả các khu vực nghiên cứu, các loài tảo silic chiếm ưu thế. Một số loài như Skeletonema, Cyclotella, Thalassiosira với mật độ và sinh khối cao, là nguồn thức ăn dồi dào cho nuôi trồng thủy hải sản và nghề cá. Đặc biệt, với sự hiện diện và chiếm ưu thế của hai nhóm tảo silic Thalassiosira và Skeletonema, đây chính là nguồn thức ăn tự nhiên có giá trị cho các loài thủy hải sản phân bố, phát triển.
Xác định nhiều loài có giá trị kinh tế cao
Nhóm nghiên cứu ghi nhận được 52 loài thuộc 29 giống, 21 họ, 6 lớp, 4 ngành và 7 loại ấu trùng. Quần xã động vật đáy không xương sống cỡ lớn ở vùng cửa sông ven biển và rừng ngập mặn Cần Giờ ghi nhận 161 loài, 99 giống thuộc 76 họ, 34 bộ, 8 lớp, 5 ngành. Nhóm nghiên cứu kết luận, tính đa dạng của quần xã động vật đáy không xương sống cỡ lớn ở vùng cửa sông ven biển và rừng ngập mặn Cần Giờ khá cao.
Các giá trị về số loài, chỉ số đa dạng sinh học khá cao ở hầu hết các địa điểm nhưng không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các mô hình. Trong số các loài động vật đáy không xương sống cỡ lớn có rất nhiều loài có giá trị kinh tế cao, ví dụ như tôm tít, hàu và nghêu phục vụ phát triển sinh kế cộng đồng trong quản lý nghề cá, phát triển bền vững nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ huyện Cần Giờ, TPHCM.
Nhóm nghiên cứu đã thu thập và xác định được 147 loài cá thuộc 44 họ, 13 bộ. Trong 13 bộ cá đã được xác định, bộ cá Vược chiếm ưu thế với số lượng loài nhiều nhất (83 loài). Đứng thứ hai là bộ cá Bơn với 15 loài chiếm tỷ lệ 10%; kế đến là bộ cá Trích với 12 loài chiếm tỷ lệ 8%; đứng thứ tư là bộ cá Nheo với 9 loài chiếm tỷ lệ 6%. Bộ cá Chình có 7 loài, chiếm tỷ lệ 5%. Bộ cá Đối có 6 loài chiếm tỷ lệ 4%.
Các bộ còn lại có số lượng loài ít, chiếm tỷ lệ dao động từ 1% - 3% trong cấu trúc của thành phần loài. Kết quả nghiên cứu cũng xác định 13 loài thuộc 10 họ, 5 bộ có mặt trong Sách Đỏ Việt Nam và trong Danh lục Đỏ thế giới - IUCN (2021), với các mức độ đe doạ khác nhau. Ngoài ra, có 3 loài nằm trong Danh mục loài thủy sản nguy cấp, quý hiếm. Có 2 loài là loài đặc trưng cho địa phương, vùng gồm loài cá Chìa vôi và cá Dứa.
Theo TS Thái Ngọc Trí, khu hệ thủy sinh vật thủy sản, thực vật rừng ngập mặn (vùng bờ) phong phú, đa dạng có vai trò và giá trị không chỉ trong tiềm năng phát triển kinh tế thủy sản mà còn có vai trò, giá trị về khoa học bảo tồn đa dạng sinh học. Điều kiện môi trường và hệ sinh thái vùng bờ tốt có vai trò quan trọng đối với hệ sinh thái vùng biển ven bờ.
Nghiên cứu này làm cơ sở khoa học cho việc quản lý, sử dụng nguồn lợi thủy sản vùng biển ven bờ (đới bờ) gắn với bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường, hệ sinh thái cảnh quan ở vùng biển ven bờ, thích ứng với biến đổi khí hậu.