Có nên khai thác đất hiếm ở Việt Nam?

GD&TĐ - Dù Việt Nam có nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ 2 thế giới song giá trị kinh tế của đất hiếm không cao.

Toàn cảnh hội nghị.
Toàn cảnh hội nghị.

Dù Việt Nam có nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ 2 thế giới song giá trị kinh tế của đất hiếm không cao. Trong khi đó, phải đánh đổi rất lớn về môi trường nếu khai thác khiến chuyên gia băn khoăn có nên khai thác đất hiếm ở Việt Nam?

Nguyên liệu hiếm nhưng giá rẻ

Ngày 18/10, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp với Bộ KH&CN tổ chức hội thảo khoa học Đất hiếm Việt Nam - Thực trạng công nghệ khai thác, chế biến và triển vọng

Theo Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương, trữ lượng đất hiếm ở Việt Nam vào khoảng 22 triệu tấn. Các mỏ đất hiếm ở Việt Nam có quy mô từ trung bình đến lớn, chủ yếu là đất hiếm nhóm nhẹ (nhóm lantan - ceri), có nguồn gốc nhiệt dịch và tập trung ở vùng Tây Bắc. Các mỏ đất hiếm gốc và vỏ phong hóa phân bố ở Tây Bắc gồm Nậm Xe, Nam Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai), Yên Phú (Yên Bái).

Ngoài các mỏ đất hiếm trên, ở vùng Tây Bắc còn có nhiều điểm quặng có biểu hiện sa khoáng nhưng chưa được điều tra, đánh giá như điểm mỏ Sin Chải, Thèn Sin (Lai Châu), Làng Phát, Làng Nhẻo (Yên Bái)…

GS Châu Văn Minh, Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, đất hiếm là nguyên liệu không thể thiếu trong nhiều ngành công nghệ cao như thông tin y tế, năng lượng, giao thông - vận tải, quân sự…

Mặc dù giá trị giao dịch của đất hiếm trên thế giới hiện nay chỉ dưới 10 tỷ USD/năm, nhưng đây lại là nguyên liệu chiến lược, không thể thay thế đối với nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển.

Với trữ lượng đất hiếm được đánh giá là đứng thứ hai thế giới chỉ sau Trung Quốc, Việt Nam đang được coi như một nhà cung cấp nguyên liệu đất hiếm tiềm năng trong tương lai.

Dù được thăm dò, đánh giá trữ lượng từ hơn 40 năm nay song đến nay Việt Nam vẫn chưa khai thác và chế biến được mỏ đất hiếm nào. Cùng với nguyên nhân về thị trường tiêu thụ, một trong những nguyên nhân chính là chúng ta chưa có công nghệ khai thác, chế biến đất hiếm. Mà đây lại là lĩnh vực các nước giữ độc quyền, không chuyển giao công nghệ.

“Chúng ta có nên khai thác đất hiếm lúc này không khi mà giá trị giao dịch đất hiếm trên thế giới không phải là lớn, trong khi khai thác, chế biến đất hiếm được cho là có tác động xấu đến môi trường, môi sinh. Trong trường hợp khai thác, chúng ta nên làm đến đâu, triển vọng tự phát triển được công nghệ chế biến đất hiếm ở Việt Nam như thế nào?”, GS Châu Văn Minh đặt câu hỏi tại hội thảo.

Đánh đổi môi trường nếu khai thác

GS Nguyễn Quang Liêm, Viện Khoa học Vật liệu cho biết, đất hiếm là nguyên liệu quan trọng dùng để sản xuất các linh kiện trong điện thoại di dộng, pin năng lượng, mô tơ điện hiệu suất cao, tivi màn hình phẳng, thiết bị quốc phòng và các công nghệ năng lượng sạch khác. Đất hiếm ngày càng đóng vai trò lớn với các ngành công nghiệp và tương lai của thế giới.

Khai thác đất hiếm cho lợi nhuận thấp, phá hoại môi trường, ô nhiễm bụi bặm. Từ quặng thô, làm giàu lên phải sử dụng rất nhiều hóa chất, lợi nhuận kinh tế rất thấp trong khi chất thải của chế biến là phóng xạ độc hại. Đến giai đoạn tách ra từng nguyên tố nhưng cũng đem lại lợi nhuận rất thấp, vẫn phải sử dụng những hóa chất độc hại

Theo TS Dương Văn Nam, Viện Khoa học Vật liệu, để chiết xuất 1 tấn sản phẩm đất hiếm cần đến lượng nước và hóa chất cực lớn. Khảo sát ở Trung Quốc cho thấy, để sản xuất ra 1 tấn đất hiếm thì tốn khoảng 50 tấn quặng, 1,9 tấn nước, 12,32 tấn NaCl, 1,64 tấn NaOH, 1,17 tấn HCl, 4,41 tấn H2SO4. Ngoài ra sẽ phá hủy 200m2 thảm thực vật, tạo ra 2.000m3 chất thải.

PGS.TS Hoàng Anh Sơn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Vật liệu cho biết, thực trạng công nghệ hiện nay, về công nghệ tuyển, hiệu quả và chất lượng tuyển không cao, hàm lượng và tỷ lệ thực thu đất hiếm, hàm lượng các tạp chất có hại đi cùng.

Chưa giải được bài toán tuyển quặng tối ưu nhất. Công nghệ tách tổng oxit đất hiếm, chúng ta chưa có nhà máy chế biến từ tinh quặng ra sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, hàm lượng tối thiểu từ 95%.

Về công nghệ phân chia và làm sạch, mặc dù đã có nghiên cứu từ rất sớm nhưng phần lớn mới triển khai trong phòng thí nghiệm, chưa có công nghệ nào áp dụng trong thực tế. Về công nghệ chế tạo kim loại đất hiếm đòi hỏi trình độ công nghệ rất cao làm ra các sản phẩm cho ngành xe điện, điện gió, công nghiệp quốc phòng. Công nghệ này chưa bắt đầu ở nước ta.

Để nghiên cứu khai thác đất hiếm, theo GS Nguyễn Quang Liêm, cần triển khai xây dựng các dự án và phòng thí nghiệm nâng cao năng lực nghiên cứu công nghệ khai thác, chế biến, đánh giá tác động môi trường, xử lý hoàn nguyên môi trường sau khai thác và chế biến sâu đất hiếm ở Việt Nam, ứng dụng trong những sản phẩm công nghiệp có giá trị cao. Thời gian để triển khai một dự án đất hiếm ở Việt Nam cần đến không dưới 10 năm.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Toạ đàm “Trí tuệ nhân tạo và ảnh hưởng trong các trường ĐH” trong khuôn khổ Hội thảo “AI và tương lai giáo dục ĐH”.

AI và tương lai giáo dục đại học

GD&TĐ - Ngày 11/12, hội thảo “AI và tương lai giáo dục ĐH” được tổ chức nhằm chia sẻ nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn của trí tuệ nhân tạo trong giáo dục ĐH.