Cô giáo trẻ vượt núi gieo chữ, ươm mầm hy vọng cho trẻ vùng cao

GD&TĐ - Nhiều năm qua, cô Trần Thị Anh bám trường, lớp, mang đến con chữ để gieo những hạt giống tri thức đầu tiên cho học trò.

Đường đến Trường Mầm non số 1 Na Tông mùa mưa vô cùng vất vả.
Đường đến Trường Mầm non số 1 Na Tông mùa mưa vô cùng vất vả.

Lựa chọn đẹp nhất

Giữa đại ngàn Điện Biên, nơi những con đường quanh co len giữa mây núi, có một cô giáo trẻ ngày ngày vượt 50km từ Bản Cang (xã Mường Phăng) đến Trường Mầm non số 1 Na Tông, xã Núa Ngam để gieo con chữ đầu đời cho trẻ em vùng cao. Cô là Trần Thị Anh, giáo viên lớp nhà trẻ ghép 18 – 24 và 24 – 36 tháng.

Với cô, đến với nghề dạy trẻ không chỉ là lựa chọn nghề nghiệp, mà do cái duyên của người mang trong tim khát khao gieo chữ, khát khao được sống và cống hiến cho những bản làng xa xôi.

“Ngày nghe tin trường vùng cao còn thiếu giáo viên, tôi đã không do dự mà đăng ký”, cô kể. Ban đầu, đó là một quyết định táo bạo, nhưng rồi năm tháng trôi qua, cô lại thấy đó chính là lựa chọn đẹp nhất của tuổi trẻ mình khi được dạy, được thương, và được trưởng thành cùng học trò vùng cao.

anh-3.jpg
Cô Trần Thị Anh cùng trò tham gia các hoạt động văn hoá.

Xã Núa Ngam là một trong những xã vùng cao còn nhiều khó khăn của tỉnh Điện Biên. Ở đây, có những điểm trường cách xa trung tâm, đường đi quanh co, dốc đứng; mùa mưa lầy lội, mùa đông lạnh buốt. Có nơi, đến nay vẫn chưa có điện, nước sinh hoạt phải hứng từng can hoặc dẫn tạm từ khe suối về.

Những ai từng đặt chân đến đây mới hiểu hết nỗi vất vả của nhà giáo vùng cao, vì mỗi chuyến đi dạy không chỉ vượt qua núi đèo, mà còn phải vượt qua chính mình.

Mỗi sáng, cô Anh rời nhà từ rất sớm. Quãng đường 50km dốc núi, nhiều đoạn lội suối, có khi mưa gió bão bùng, vẫn không thể ngăn cô đến lớp. Những đứa trẻ nơi đây, nhiều em nhà xa, cơm chưa đủ no, áo chưa đủ ấm, đến lớp vẫn còn rụt rè, e ngại luôn là động lực để cô gắn bó với nghề, để mỗi ngày đến lớp là một hành trình gieo hy vọng.

Công việc của một giáo viên mầm non vốn đã vất vả, nhưng ở vùng biên lại càng nhiều gian nan hơn, không chỉ là đường xa, mà còn là nỗi nhớ con. Chồng cô công tác trong lực lượng vũ trang, thường xuyên trực chiến, ít khi về nhà; mọi việc trong gia đình, từ chăm con đến lo toan nhà cửa đều nhờ ông bà ngoại giúp đỡ.

“Có khi nhớ con đến rơi nước mắt, tôi tự nhủ phải mạnh mẽ, bởi tôi là cô giáo vùng cao và những đứa trẻ ở đây cũng đang rất cần tôi”, cô nói, ánh mắt rạng rỡ nhưng chứa đầy kiên cường.

Thời gian gần đây, nhờ sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, cơ sở vật chất của trường đã dần được cải thiện, song so với các vùng thuận lợi, điều kiện dạy và học vẫn còn nhiều thiếu thốn: phòng học chật, có điểm trường chưa có điện, nước sinh hoạt chưa ổn định, đường đi lại hiểm trở.

Đa phần học sinh là trẻ em dân tộc H’Mông, Lào, Khơ Mú, Thái… nên khả năng giao tiếp tiếng Việt còn hạn chế. Các cô giáo nơi đây không chỉ dạy chữ mà còn phải dạy trẻ từng điều nhỏ nhất như biết chào hỏi, biết rửa tay, biết tự mặc áo, biết ngồi ăn ngoan.

“Phần lớn cha mẹ các em đi làm ăn xa hoặc lên nương, lên rẫy từ sáng sớm đến tối muộn nên ít có thời gian chăm sóc con cái, do đó nhà giáo ở đây còn kiêm thêm nhiều công việc ngoài giờ nữa”, cô kể.

Với cô Anh và đồng nghiệp, việc đi vận động học sinh đã trở thành công việc quen thuộc. Có những buổi sáng lớp vắng vài em, cô lại men theo con đường đất quanh co, vào tận bản tìm trò. Có em còn đang chơi ở sân, có em đã theo mẹ lên nương. Cô kiên nhẫn dỗ dành, rồi nắm tay các em đưa trở lại lớp, nơi những bài hát, trò chơi và tiếng cười trẻ thơ lại vang lên giữa núi rừng tĩnh lặng.

Cùng trẻ "chạm" vào kho báu văn hóa

Giữa muôn vàn gian khó nơi vùng biên viễn, điều khiến cô giáo Trần Thị Anh nhớ nhất không phải là những ngày mưa gió hay những buổi đi vận động học sinh, mà là những dịp lễ đặc biệt. Vào những ngày 20/11 hay dịp cận Tết hàng năm, lớp học nhỏ lại rộn ràng tiếng cười.

anh-2.jpg
Cô luôn giáo dục trò ý thức về gìn giữ văn hoá dân tộc

Không có hoa tươi rực rỡ hay những món quà đắt tiền, niềm vui của cô đến từ những điều giản dị mà ấm lòng: nhà hái mớ rau rừng, nhà mang bát gạo, củ sắn, củ khoai, có phụ huynh còn đồ nắm xôi, nướng con cá mang tới tặng cô giáo.

Những món quà mộc mạc ấy chứa đựng cả tấm lòng biết ơn và sự gắn bó thân tình giữa cô và người dân bản, là nguồn động viên lớn lao để cô tiếp tục bền bỉ với nghề gieo chữ nơi non cao.

Nhưng hơn cả, điều khiến cô Trần Thị Anh gắn bó và tự hào với công việc của mình chính là cơ hội được góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc ngay trong lớp học mầm non. Ở xã Núa Ngam, phần lớn trẻ em là con em các dân tộc Thái, Khơ Mú, H’Mông…

Cuộc sống đã có nhiều đổi thay, nhưng trong sinh hoạt hàng ngày, các em vẫn nói được tiếng mẹ đẻ, vẫn mặc trang phục truyền thống trong lễ hội, vẫn ngân nga những làn điệu dân ca của dân tộc mình. Với cô Anh, đó là kho báu văn hóa mà người giáo viên mầm non có trách nhiệm gìn giữ và trao truyền.

“Ở lứa tuổi mầm non, trẻ học bằng cảm xúc và trải nghiệm”, cô chia sẻ. Bởi thế, trong từng hoạt động dạy học, cô luôn tìm cách lồng ghép yếu tố văn hóa dân tộc một cách tự nhiên, gần gũi, trăn trở tìm ra những cách làm mới, nảy ra sáng kiến tận dụng nguyên liệu sẵn có của địa phương để làm đồ chơi, đồ dùng học tập; đưa những bài hát, điệu múa dân ca vào giờ học để trẻ vừa học vừa giữ gìn bản sắc văn hóa.

Đưa văn hóa dân tộc vào chương trình mầm non không hề dễ. Cô giáo trẻ phải khéo léo dung hòa giữa yêu cầu chương trình chung với đặc thù vùng miền. Thời gian học mỗi ngày có hạn, nên cô phải lựa chọn nội dung phù hợp, truyền tải bằng hình thức sinh động: biến bài hát thành trò chơi, biến câu chuyện dân gian thành hoạt động kể chuyện hay dựng tiểu phẩm nhỏ để trẻ dễ tiếp thu. Mỗi bài học là một cơ hội để trẻ được “chạm” vào văn hóa của dân tộc mình bằng âm thanh, hình ảnh và cảm xúc.

Khi dạy hát, cô chọn những bài dân ca quen thuộc của người Thái, H’Mông, Khơ Mú; khi dạy múa, cô hướng dẫn trẻ điệu múa truyền thống mang hơi thở núi rừng. Trong giờ chơi, cô tổ chức các trò chơi dân gian, giúp trẻ vừa vui vừa học, vừa thấm dần tình yêu với văn hóa dân tộc.

Cô kể, có những hôm trong giờ trải nghiệm, lớp học trở nên rộn ràng khi trẻ được mặc trang phục truyền thống. Những chiếc váy xòe rực rỡ sắc màu, những tiếng cười trong veo vang lên khi trẻ vừa múa vừa hát bài Inh lả ơi của dân tộc Thái hay chơi trò đánh cù của người H’Mông.

Dần dần, các em biết chào bằng tiếng mẹ đẻ, biết kể tên dân tộc mình, và hãnh diện khoe với cô “Con là người H’Mông”, “Con là người Thái”. Mỗi khoảnh khắc như thế, với cô Anh là niềm vui giản dị mà sâu sắc vô cùng bởi đó là khi giá trị văn hóa được thắp sáng trong tâm hồn trẻ thơ.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ