Theo các nguồn sử liệu, Trương Hán Siêu tên tự là Thăng Phủ, hiệu là Độn Tẩu (sinh khoảng năm 1274, mất năm 1354), quê tại làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay là phường Vân Giang, Hoa Lư, Ninh Bình). Ông phục vụ trải bốn đời vua Trần, là: Anh Tông, Minh Tông, Hiến Tông và Dụ Tông.
Môn khách trẻ tuổi của Trần Hưng Đạo
Các nguồn tư liệu dân gian ở vùng Ninh Bình và Nam Định cho biết, Trương Hán Siêu mồ côi cha từ nhỏ nên phải bươn chải sống cùng mẹ trong cảnh khó nghèo. Tuy nhiên, ông sớm bộc lộ tư chất thông minh hơn người. Khoảng năm 1285, khi vua tôi nhà Trần lui về Trường Yên để xây dựng hành cung chuẩn bị kháng chiến chống Nguyên - Mông, tình cờ ông gặp được Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.
Qua tiếp xúc, Trần Quốc Tuấn nhận thấy Trương Hán Siêu tuy còn nhỏ tuổi nhưng tư chất khác thường, thông minh lỗi lạc nên đã thu nạp dưới trướng. Bằng tài năng, ông dần được Trần Quốc Tuấn tin yêu, coi như môn khách và cho đảm trách vị trí “thư nhi” (trợ lý riêng giúp việc cho Trần Quốc Tuấn).
Nhiều ý kiến của Trương Hán Siêu được Hưng Đạo vương nghe theo, trong đó có kế hoạch lấy không đánh có, lấy nhu thắng cương, vườn không nhà trống, lấy ít đánh nhiều. Lược truyện các tác giả Việt Nam ghi rằng, Trương Hán Siêu “lập được nhiều công trạng trong 2 trận đánh giặc Nguyên”.
Sách “Từ điển văn học” cũng ghi, Trương Hán Siêu “có ít nhiều đóng góp trong 2 cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ 2 và thứ 3”. Kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên - Mông thắng lợi, năm 1308 ông được vua Trần Anh Tông phong làm Hàn lâm học sĩ.
Cho đến nay, nhiều ý kiến băn khoăn, Trương Hán Siêu có tham gia ứng thí và đỗ đạt hay không? Vấn đề này, các nguồn chính sử cũng như đăng khoa lục, văn bia đề danh không thấy ghi chép. Tuy nhiên, trong tác phẩm “Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên” do nhà địa lý Nguyễn Tử Mẫn sống thời nhà Nguyễn biên soạn thì Trương Hán Siêu đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ).
Chi tiết này được giới nghiên cứu ngày nay chú ý, bởi vào thời kỳ nhà Trần xuất hiện rất nhiều danh sĩ đại nho như: Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi... Trương Hán Siêu được giữ chức Hàn lâm học sĩ thì không thể không có bằng sắc khi được bổ giữ chức tước quan trọng này.
Một chi tiết nữa được chính sử ghi chép, chứng tỏ Trương Hán Siêu trải qua trường lớp đào tạo rất bài bản, danh tiếng lúc bấy giờ. Đó là khi còn ở Thăng Long, Trần Ích Tắc có xin phép anh là Trần Thánh Tông mở trường tư thục ở ngay phủ đệ, bên cạnh trường Quốc Tử Giám để đào tạo nhân tài cho triều đình.
Rất nhiều danh sĩ thời bấy giờ kéo về đây xin theo học như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đại Phạp, Bùi Phóng, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu… Trong số đó, sử sách ghi chép Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên, Nguyễn Trung Ngạn đỗ Hoàng giáp, còn Trương Hán Siêu lại không có ghi chép gì chuyện thi cử. Chỉ biết rằng, trong số các học trò của Trần Ích Tắc, Trương Hán Siêu được đánh giá là người giỏi nhất, mỗi khi bận rộn, ông được Trần Ích Tắc giao thay mình truyền dạy cho các đệ tử khác.

Kiếm sắc chốn triều đường
Đến thời vua Trần Minh Tông, Trương Hán Siêu được giao chức Hành khiển vào năm 1326. Đến năm 1339, ông lại được giao chức Môn hạ Hữu ty Lang trung của triều vua Trần Hiến Tông. Năm 1342, do có kẻ gièm pha, đố kỵ, ông phải chuyển sang giữ chức Tả ty Lang trung kiêm Kinh lược sứ Lạng Giang (vùng Lạng Sơn, Bắc Giang ngày nay). Năm 1345, ông được sung chức Tả gián nghị đại phu, năm 1351 được thăng đến Tham tri chính sự.
Tháng 9/1353, Chiêm Thành quấy nhiễu vùng Hóa Châu (Huế), triều đình cử Trương Hán Siêu thống lĩnh quân “Thần sách” đi đánh dẹp. Khi ấy, mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn lĩnh mệnh. Tháng 11/1354, giặc tan, biên thùy yên ổn, ông cáo bệnh xin trở về nghỉ nhưng về gần tới kinh thành thì mất. Vua Trần Dụ Tông truy tặng ông chức Thái bảo.
Năm 1363, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông truy tặng Trương Hán Siêu chức Thái phó và được thờ ở Văn Miếu, ngang với các bậc hiền triết đời xưa.
Về việc thờ phụng này, trong sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, danh sĩ Phan Phu Tiên nhận xét: “Bậc danh nho các đời có bài trừ được dị đoan, truyền giữ được đạo thống thì mới được tòng tự ở Văn Miếu, thế là để tỏ rõ đạo học có ngọn nguồn. Nghệ Tông cho Chu An, Trương Hán Siêu được dự vào đó, thì Hán Siêu là người cứng cỏi, bài xích đạo Phật, An sửa mình trong sạch, bền giữ khí tiết, không cầu hiển đạt”.
Giới nghiên cứu cho rằng, chi tiết “bài xích đạo Phật” mà Phan Phu Tiên chép vào sách sử bị người nay hiểu nhầm. Đặt trong bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, Trương Hán Siêu không thích đạo Phật vì ban đầu ông thấy Trần Ích Tắc cũng mộ đạo Phật nhưng lại không sáng suốt. Sau này lại thấy các vua quan nhà Trần thích xây chùa to điện lớn, gây hao tổn công quỹ.

Đặc biệt, vì lúc đó đạo Phật hưng thịnh nên nhiều người muốn trốn tránh cuộc đời, lợi dụng đạo Phật để mưu cầu mục đích riêng. Trương Hán Siêu đã nói rõ vấn đề này trong văn bia chùa “Khai Nghiêm” và “Dục Thúy sơn Linh tế tháp ký”.
Sách “Lịch sử Việt Nam” cũng viết: “Đến cuối đời Trần, cuộc xung đột giữa Nho và Phật bắt đầu. Những nhà nho có tiếng lúc bấy giờ như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu... đã lên tiếng phê phán và bài xích Phật giáo”. Tuy nhiên phải thấy rằng, sự bài xích, phê phán chỉ nhằm vào những kẻ lợi dụng đạo Phật chứ không chống lại giáo lý đạo Phật.
Là danh sĩ nổi tiếng đương thời, nhưng Trương Hán Siêu cũng nổi tiếng vì sự cao ngạo. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép, ông khinh bỉ người cùng hàng, không giao du với họ, gặp quan thầy thuốc thì thế nào cũng đùa bợt nói cười, đều là những kẻ không đồng điệu với ông. Đến khi coi đất Lạng Giang thì gả con gái cho tù trưởng đất ấy là Nùng Ích Vấn, khi coi chùa Huỳnh Lâm thì gả con gái cho tam bảo nô Nguyễn Chế, đều vì mộ sự giàu có của họ cả. Vì thế, sách sử này cũng đánh giá: “Trương Hán Siêu là ông quan văn học, vượt hẳn mọi người, tuy cứng cỏi, chính trực nhưng lại chơi với kẻ không đáng chơi, gả con gái cho người không đáng gả”.
Tuy nhiên, giới nghiên cứu cho rằng, việc Trương Hán Siêu ít giao du với những bạn bè cùng hàng vì những người này trước đây cùng học với ông tại trường của Trần Ích Tắc. Vì là học trò giỏi, được thầy yêu quý giao cho các việc hệ trọng như dạy dỗ các đệ tử khác nên Nguyễn Văn Long lúc đó là trưởng tràng ganh tị, bày mưu ám sát Trần Ích Tắc rồi vu oan cho Trương Hán Siêu.
Trong tình thế bị ám hại, ông không thể thanh minh khi chính những người bạn học đã hùa nhau công kích kết tội ông. Trương Hán Siêu phải đào tẩu, trốn tránh trong các hang động ở Ninh Bình. Sau này may mắn gặp được Trần Hưng Đạo, mọi chuyện mới rõ ràng. Trương Hán Siêu tha thứ không kể tội bạn học ra nhưng không kết tình thân, kể cả với người xuất chúng như Mạc Đĩnh Chi.
Tài năng, đức độ và cả sự “cao ngạo” của Trương Hán Siêu không chỉ là trụ cột của triều Trần, mà còn được ví như “thanh kiếm sắc” của vương triều. Bởi vậy, khi ông còn sống thì bọn gian thần không dám lộng hành, nhưng đến khi ông mất, Phạm Ngũ Lão cũng mất thì một mình Chu Văn An không đủ sức đối phó với bọn gian thần mà phải cáo quan về dạy học.

Dấu ấn danh sĩ họ Trương trên đất cố đô
Trương Hán Siêu được đánh giá là người có học vấn sâu rộng, được các vua Trần tôn quý như bậc thầy. Theo khảo sát chưa đầy đủ, tác phẩm của ông hiện còn 7 bài thơ: “Cúc hoa bách vịnh”, “Hóa Châu tác”, “Dục Thúy sơn”, “Quá Tống đô”; văn xuôi ông có 2 bài: “Khai Nghiêm tự bi ký” và “Dục Thúy sơn linh tế tháp ký”.
Ngoài ra, ông còn tham gia soạn “Hoàng triều đại điển” cùng với Nguyễn Trung Ngạn vào năm 1341, quy định phép tắc, lễ nghi, đưa các nghi thức, nghi lễ của triều đình vào nền nếp.
Đặc biệt, tác phẩm nổi tiếng nhất trong sự nghiệp văn chương của Trương Hán Siêu là bài “Bạch Đằng giang phú” (bài Phú sông Bạch Đằng) - một áng thiên cổ hùng văn bất hủ có giá trị lịch sử và giá trị văn học lớn. Đây là một áng văn chứa chan niềm tự hào dân tộc, có ý nghĩa tổng kết lại chiến thắng Bạch Đằng: “Giặc tan muôn thuở thái bình/ Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao”.
Bởi có nhiều công lao lớn với đất nước, sau khi mất, Trương Hán Siêu được nhiều nơi phụng thờ. Trong đó, có đền Cố Trạch thuộc Khu di tích đền Trần (Nam Định); đền Từ Du hay đình Cao Đà thờ Trương Hán Siêu với vai trò là vị tổ lập làng Cao Đà ở xã Nhân Mỹ (Lý Nhân, Hà Nam); đền Từ Xá tại xã Đoàn Kết (Thanh Miện, Hải Dương); chùa Đẩu Long (Hoa Lư, Ninh Bình).
Đặc biệt, đền thờ Trương Hán Siêu được xây dựng ngay dưới chân núi Non Nước (Dục Thúy sơn) nổi tiếng là ngọn núi thi thơ đẹp nhất Ninh Bình, là nơi lưu giữ nhiều áng văn thơ hay và cổ nhất Việt Nam với những bài vịnh, bài khắc thạch của các danh nhân lịch sử trải qua nhiều triều đại.
“Dục Thúy sơn” là tên do Trương Hán Siêu đặt lại cho núi Non Nước, có nghĩa là “con chim trả tắm mình bên dòng sông nước bạc”. Đây là một ngọn núi đẹp nằm ở giữa cầu Non Nước và cầu Ninh Bình, ở ngay trên ngã ba sông Vân và sông Đáy.
Đền thờ Trương Hán Siêu được xây theo kiến trúc kiểu chữ đinh. Trên đỉnh đền có hai con rồng chầu mặt nguyệt. Gian bái đường ở hai bên cắm bát cửu. Gian cuối cùng của hậu cung có tượng thờ Trương Hán Siêu được đúc bằng đồng. Trên đỉnh Non Nước còn có di tích “Lầu đón gió”, được xây dựng vào thế kỷ 14. Tương truyền, đây là nơi Trương Hán Siêu cùng tao nhân mặc khách và các văn sĩ đàm đạo thơ phú, việc nước.
Cuối tháng 5/2025, tại thành phố Hoa Lư, UBND tỉnh Ninh Bình phối hợp với Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học “Thân thế, sự nghiệp Thái phó Trương Hán Siêu”, khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của danh sĩ Trương Hán Siêu đối với vùng đất cố đô Hoa Lư nói riêng, trên bình diện dân tộc nói chung.
Hiện, hoàn cảnh lịch sử, tư liệu về thân thế và sự nghiệp của Thái phó Trương Hán Siêu chưa thật đầy đủ. Vì vậy, hội thảo có ý nghĩa quan trọng để các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu làm rõ một số vấn đề; đánh giá vị trí, vai trò và những đóng góp của Thái phó Trương Hán Siêu về văn hóa, lịch sử… trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam.
Các tham luận tại Hội thảo “Thân thế, sự nghiệp Thái phó Trương Hán Siêu” và những ý kiến trao đổi, chất vấn tập trung làm rõ vai trò, thân thế, sự nghiệp, công lao, dấu ấn cũng như đóng góp to lớn của Trương Hán Siêu trong tiến trình lịch sử dân tộc. Đặc biệt làm rõ vai trò, những đóng góp của ông đối với triều Trần và với nền văn hóa Đại Việt, thể hiện ở bốn phương diện chính: Vai trò trong dòng chảy lịch sử, văn học, văn hóa cũng như giá trị di sản lịch sử, văn hóa liên quan đến Thái phó Trương Hán Siêu trong xã hội đương đại. Đồng thời nêu những kiến nghị, gợi ý về các ý tưởng nhằm bảo tồn, lưu giữ, phát huy giá trị di sản núi Dục Thúy gắn với nhân vật lịch sử Trương Hán Siêu.