Phạm Đạo Phú (1463 - 1539) quê làng Hoàng Xá, tổng Thanh Khê, huyện Đại An, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Phạm Xá, xã Yên Cường, Ninh Bình), là một trong những gương mặt tiêu biểu của tầng lớp trí thức Đại Việt cuối thế kỷ 15 - đầu thế kỷ 16. Không chỉ là nhà khoa bảng nổi tiếng, từng giữ chức vụ cao trong triều Lê, ông còn là một tác gia có vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học dân tộc, đặc biệt với tư cách là một trong 28 ngôi sao của Tao Đàn nhị thập bát tú dưới triều vua Lê Thánh Tông.
Anh em đại khoa - một văn một võ
Trong ký ức dân gian và các thư tịch cổ, tên tuổi Tiến sĩ Phạm Đạo Phú thường được nhắc đến cùng người em họ là Hoàng giáp, Đại tướng Đổng quân Phạm Bảo. Hai anh em cùng đỗ đại khoa, cùng làm quan một triều, văn võ song toàn, khi mất đều được triều đình phong thần, nhân dân tôn thờ làm phúc thần và thờ chung trong một ngôi đền. Đó là một trường hợp hiếm có trong lịch sử khoa bảng phong kiến Việt Nam.
Sử liệu đăng khoa cho biết, Phạm Bảo đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487), dưới triều vua Lê Thánh Tông. Văn bia đề danh Tiến sĩ khoa thi này do Hàn lâm viện Thừa chỉ Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung vâng sắc soạn, cho biết Phạm Bảo đứng thứ 26 trong số 30 Tiến sĩ đứng hàng Đệ nhị giáp.
Sau khi đỗ đạt, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó đô ngự sử tại Ngự sử đài - cơ quan có nhiệm vụ can gián nhà vua và giám sát, thanh tra quan lại trong cả nước. Vốn tinh thông võ nghệ, Phạm Bảo sớm được vua Lê Thánh Tông chuyển sang ngạch võ quan. Từ chức Chưởng quản Nội thị, ông dần thăng tiến lên chức Đại tướng Đổng quân, trở thành một trong những tướng lĩnh chủ chốt của triều đình.
Ông nhiều lần được giao trọng trách cầm quân đi chiêu dụ Ai Lao, đánh dẹp các cuộc nổi loạn ở vùng biên viễn như giặc Ngọc Lâu tại Hưng Hoá. Năm Hồng Đức 23 (1492), khi trại của Đa La Lý tụ tập người Man Cam Cát nổi loạn, triều đình cử Phạm Bảo cùng Đại tướng Trần Tường mang quân đi đánh dẹp. Ông lập công lớn khi bắt sống được Đa La Lý, chiêu an các Man động, góp phần giữ yên miền thượng du. Với chiến công này, vua Lê phong ông làm Võ huân tướng quân Tả hiệu điểm, giữ chức Trấn thủ Nghệ An.
Năm Cảnh Thống 4 (1501), dưới triều vua Lê Hiến Tông, Phạm Bảo hộ giá vua thân chinh đi đánh đồn Bổn Man. Trên đường hành quân, ông lâm bệnh và mất. Thương tiếc một vị tướng văn võ song toàn, lập nhiều công lao hiển hách, vua truy phong ông hàm Thiếu úy, ban thụy hiệu Vũ Thành. Linh cữu ông được đưa về an táng tại làng Hưng Thịnh, huyện Đại An. Lăng mộ của ông đến nay vẫn còn tại xứ Mả Người, thôn Hưng Thịnh (thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cũ). Năm Quang Hưng 18 (1595), đời vua Lê Thế Tông, ông được phong làm phúc thần và lập đền thờ tại làng Hưng Thịnh.
Anh họ là Phạm Đạo Phú cũng sớm nổi tiếng thông minh, học giỏi, có năng khiếu văn chương từ nhỏ. Năm Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức 21 (1490), ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, trở thành một trong những nhà khoa bảng nổi tiếng của triều Lê Thánh Tông.
Khí tiết trung liệt, trọn vẹn tiếng tốt
Năm Hồng Đức 26 (1495), Phạm Đạo Phú được bổ nhiệm giữ chức Hàn lâm viện Hiệu kiểm (sau này gọi là Hàn lâm viện Kiểm thảo), chuyên phụ trách việc kiểm thảo, biên tập các văn thư, chiếu chế của triều đình. Đây là chức vụ đòi hỏi học vấn uyên thâm, văn phong chuẩn mực và sự cẩn trọng cao độ.
Sau đó, ông được thăng chức Hình bộ Tả thị lang, một chức quan cao cấp của Hình bộ, chỉ đứng sau Thượng thư và Tham tri, mang hàm Chánh tam phẩm. Trên cương vị này, ông giúp Thượng thư trông coi việc pháp luật, xét duyệt các án lớn, án ngờ, kiểm tra việc giam giữ tù nhân, bảo đảm sự công minh của pháp luật triều đình.
Đáng chú ý, Phạm Đạo Phú làm quan trải qua bảy triều vua: Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Lê Túc Tông, Lê Uy Mục, Lê Tương Dực, Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng. Trong bối cảnh triều Lê từ thịnh trị chuyển dần sang suy thoái, việc ông vẫn giữ được thanh danh và sự tín nhiệm là điều không dễ dàng. Văn bia ở miếu thờ hai anh em tại làng Hưng Thịnh do Hoàng giáp Phạm Văn Nghị soạn đã ghi nhận: “Anh em cùng nhau nối tiếp trước sau, trọn vẹn tiếng tốt ở đương thời”.
Năm Đinh Hợi, niên hiệu Thống Nguyên 6 (1527), Mạc Đăng Dung phế truất vua Lê, cướp ngôi lập ra nhà Mạc. Trước biến cố lớn của lịch sử, Phạm Đạo Phú một lòng trung thành với triều Lê, treo ấn từ quan, trở về quê mở trường dạy học.
Nhà Mạc nhiều lần triệu mời ông ra làm quan, nhưng ông kiên quyết từ chối. Thực chất, trong những năm tháng ở ẩn, Phạm Đạo Phú ngầm chiêu tập nghĩa binh dưới hình thức dạy học, nuôi chí khôi phục nhà Lê. Việc không thành, để tránh liên luỵ cho con cháu, ông cho đổi họ Phạm thành họ Ngô. Dù mang họ khác, con cháu ông vẫn trông nom từ đường họ Phạm. Theo nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống, gần đây, dòng họ đã được chính quyền cho phép đổi trở lại họ Phạm.
Ngày 2 tháng 8 năm Nguyên Hoà 7 (1539), Phạm Đạo Phú qua đời. Lăng mộ của ông hiện nằm tại gò Con Ngựa, xứ đồng Mả Cả, thôn Hưng Thịnh (nay là Đồng Thịnh, tỉnh Ninh Bình). Sau khi mất, ông được vua Lê Thế Tông xếp vào hàng trung thần triều Lê, truy tặng hàm Tham tri, phong làm Trung ý Trung đẳng thần, cho lập đền thờ làm phúc thần.
Năm Tự Đức thứ 7 (1854), dân làng Hưng Thịnh dùng hoa lợi từ 20 mẫu ruộng “Cấp tứ” và tiền khao vọng hơn 3.000 quan để xây dựng, hợp nhất đền thờ Phạm Đạo Phú với đền thờ Phạm Bảo. Bài vị thờ ông ghi: “An dân trấn quốc hiển sĩ binh thần tuấn lương đại vương”.
Theo nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống, quê quán của hai anh em Tiến sĩ Phạm Đạo Phú – Phạm Bảo, các tài liệu có sự ghi chép khác nhau. Một số ghi hai ông quê ở làng Hưng Thịnh, huyện Đại An; số khác xác định quê gốc là làng Hoàng Xá, huyện Đại An. Theo “Hương chỉ” làng Hưng Thịnh, anh em Phạm Đạo Phú là những người có công lớn trong việc khai phá, lập làng Hưng Thịnh, sau Nguyễn Đại Lang.
Tuy nhiên, theo gia phả họ Phạm và nhiều tư liệu địa phương, quê gốc của hai ông là làng Phạm Xá (xưa là Hoàng Xá). Tương truyền, sau khi anh em đỗ đại khoa, làng Hoàng Xá được đổi tên thành Phạm Xá để ghi nhớ sự vinh hiển của dòng họ. Tại đây hiện còn từ đường họ Phạm với hoành phi “Văn minh tổ” và đình ông Nghè thờ hai anh em.
Câu đối trong đình do các bậc đại khoa đời sau đề tặng đã khắc sâu hình ảnh hai anh em đại khoa thời Hồng Đức, làm rạng danh vùng đất cửa biển Đại An – nơi từng được gọi là cửa Nha Ác, Nha Thành.
Dấu ấn đặc biệt trong Tao Đàn hội
Nếu người em là Hoàng giáp Phạm Bảo nổi danh với võ công hiển hách, thì Phạm Đạo Phú được hậu thế nhắc đến trước hết như một nhà thơ, nhà văn hoá lớn. Ngay sau khi đỗ Tiến sĩ, năm 1491, ông được vua Lê Thánh Tông cho cùng đoàn quần thần về thăm Lam Kinh. Chuyến đi ấy đã để lại tập thơ xướng họa “Văn minh cổ xuý”, trong đó Phạm Đạo Phú có 6 bài thơ phụng họa.
Năm 1495, vua Lê Thánh Tông thành lập Tao Đàn hội, quy tụ 28 văn thần ứng với 28 ngôi sao trên bầu trời, gọi là Tao Đàn nhị thập bát tú. Phạm Đạo Phú được chọn làm hội viên chính thức, giữ vị trí sao Dực. Ông là người duy nhất của vùng đất Nam Định cũ nhận được vinh dự này. Việc được một vị vua tài đức như Lê Thánh Tông lựa chọn đã khẳng định tài năng và nhân cách văn chương của ông.
Ngoài 28 hội viên chính thức của hội, vua Lê Thánh Tông còn phong cho Trạng nguyên Lương Thế Vinh và Tiến sĩ Sái Thuận chức Tao Đàn sái phu, có nhiệm vụ biên tập các sáng tác của hội. Cơ cấu của hội mang tính chất khoa học nhiều mặt: sáng tác, bình văn, thẩm văn, nhuận sắc văn.
Phạm Đạo Phú làm đủ cả 9 bài thơ phụng họa trong “Quỳnh Uyển cửu ca”, bộ tác phẩm trung tâm của Tao Đàn hội. Ngoài ra, ông còn có thơ khắc trên bia “Quang Thục Thái hoàng Thái hậu” tại Lam Kinh. Bài thơ của ông tình cảm rất thống thiết, có câu: Xuất thổ quần sinh mộng ủ hú/ Bất thăng cảm đức lộ triêm cân (Cõi đất muôn loài ơn ấp ủ/ Xót thương mến đức lệ trào khăn).
Phạm Đạo Phú cũng có nhiều bài được chép trong các tuyển tập lớn như: “Lê triều thi tập”, “Toàn Việt thi lục”. Trong bài “Phụng họa ngự chế: Bách cốc phong đăng” ông đưa ra tiền đề: “Tuế lũ kim nhương thượng thuỵ đẳng” (Đã bao năm được mùa lúa vàng). Ở câu kết của bài này, ông viết: “Tứ dã nghiêu dân tư hạo hạo” (Khắp chốn thôn dã dân lành vui vẻ hớn hở).
Bài thơ diễn đạt đúng tâm trạng vui vẻ của người nông dân khi được mùa, thể hiện sự cảm thông của tác giả đối với nhân dân lao động. Không chỉ cảm thông với người nông dân mà ông còn ước mong cho dân có được đời sống yên ổn, thanh bình: “Cửu tự cửu ca quân thánh hoá/ Khang cù kích nhưỡng lạc Nghiêu niên” (Chín khúc ca vui là sự giáo hoá của bậc thánh nhân/ Dân lành vui vẻ trong cảnh thái bình của vua Nghiêu).
Triều đại vua Lê Thánh Tông là thời đại thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Thời kỳ này mọi mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục… đều phát triển và có nhiều thành tựu đáng kể. Phạm Đạo Phú đã ca lên: “Xuân hồi thảo mộc tân tiên nghiên/…/ Đa hạnh tư thần phùng thánh đại/ Nguy nguy hiếu trị nhật trung thiên” (Xuân về cây cỏ thảy đều tươi/ …/ Vua sáng tôi hiền may mắn gặp/ Xây nền hiếu trị vững muôn đời).
Thơ Phạm Đạo Phú giản dị, ít dùng điển cố, thể hiện rõ tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc và sự quan tâm sâu sắc đến đời sống nhân dân. Dù số lượng tác phẩm còn lại không nhiều, nhưng với những gì đã lưu truyền, ông xứng đáng được ghi nhận là một tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam cuối thế kỷ 15 – đầu thế kỷ 16.
Theo nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống, sự nghiệp thơ văn của Tiến sĩ Phạm Đạo Phú còn lại không nhiều. Con cháu họ Phạm ở Phạm Xá còn lưu giữ được một tập thơ chiêu hồn bằng chữ Nôm chép lại vào năm 1913, đề là: “Do tướng công Phạm Đạo Phú soạn, Khiếu Năng Tĩnh viết lời bạt”. Phần thơ xướng họa của ông còn 15 bài chép trong các sách: “Minh lương cẩm tú”, “Văn minh cổ xuý”, “Lê triều thi tập”, “Cúc Đường thi tập”, “Quỳnh Uyển cửu ca”, “Toàn Việt thi lục”.