Đường dây nóng không phải tất cả
Sở GD&ĐT Hà Nội vừa có văn bản yêu cầu các nhà trường trực thuộc đảm bảo an toàn trường học và giải quyết bạo lực học đường qua đường dây nóng. Thạc sĩ Phạm Phương cho rằng, đường dây nóng chỉ là “van an toàn” – muốn chấm dứt bạo lực học đường phải chữa từ gốc tâm lý và môi trường.
Việc Hà Nội triển khai đường dây nóng để tiếp nhận thông tin về an toàn trường học và bạo lực học đường là bước đi cần thiết, thể hiện sự chủ động và trách nhiệm của ngành giáo dục trong việc bảo vệ học sinh.
Tuy nhiên, dưới góc nhìn của tâm lý học học đường, đường dây nóng chỉ đóng vai trò như “van an toàn”, tức là công cụ phản ứng nhanh khi sự cố đã xảy ra. Nó giúp phát hiện, xử lý kịp thời, nhưng không thể chạm đến nguồn gốc tâm lý và văn hóa ứng xử đã tạo ra bạo lực trong trường học.
Theo quan điểm của tâm lý học phát triển hiện đại, hành vi bạo lực học đường không nên được xem là ‘sự hư hỏng’ của học sinh mà là một biểu hiện của rối nhiễu cảm xúc – hành vi (emotional and behavioral disorder), thường hình thành khi nhu cầu tâm lý cơ bản của học sinh được công nhận, được yêu thương, được tôn trọng nhưng không được đáp ứng đúng cách.
Khi học sinh thiếu kỹ năng điều tiết cảm xúc, không biết cách quản lý tức giận, căng thẳng hay cảm giác bị tổn thương, các xung năng tiêu cực có xu hướng chuyển thành hành vi gây hấn hoặc bắt nạt.
Ngược lại, nạn nhân của bạo lực lại thường rơi vào trạng thái bất lực học được (learned helplessness) – cảm giác rằng dù có nói ra cũng không được bảo vệ, nên chọn im lặng thay vì lên tiếng.
Thực tế cho thấy, nhiều học sinh không dám phản ánh qua đường dây nóng, không phải vì các em không biết mà vì chưa cảm thấy an toàn tâm lý (psychological safety). Theo nghiên cứu của Edmondson (1999), an toàn tâm lý là cảm giác được lắng nghe, được tôn trọng và không bị phán xét khi chia sẻ. Khi môi trường học đường chưa tạo được niềm tin đó, học sinh sẽ chọn im lặng.
"Như vậy, đường dây nóng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nằm trong một hệ sinh thái giáo dục nuôi dưỡng niềm tin, sự an toàn và lòng đồng cảm" - thạc sĩ Phạm Phương nhấn mạnh.
Cần nhiều giải pháp căn cơ
Theo quan điểm của thạc sĩ Phạm Phương, muốn giải quyết tận gốc bạo lực học đường phải chuyển trọng tâm từ “xử lý sau” sang “phòng ngừa trước” và dựa trên ba trụ cột căn cơ gồm: Giáo dục cảm xúc – xã hội (SEL), xây dựng môi trường an toàn tâm lý, củng cố hệ thống tham vấn học đường chuyên nghiệp.
Thứ nhất, cần đưa giáo dục cảm xúc – xã hội (Social Emotional Learning – SEL) vào chương trình học chính khóa. Đây là mô hình được UNESCO và CASEL khuyến nghị, giúp học sinh phát triển năm năng lực cốt lõi: Tự nhận thức, tự quản lý, nhận thức xã hội, kỹ năng quan hệ và ra quyết định có trách nhiệm.
Khi học sinh có năng lực cảm xúc – xã hội tốt, các em biết tự điều chỉnh hành vi, biết thấu hiểu và hợp tác, nhờ đó giảm đáng kể nguy cơ bạo lực và xung đột.
Thứ hai, cần xây dựng môi trường học đường an toàn về mặt tâm lý – nơi học sinh cảm thấy được tôn trọng, được lắng nghe và có thể chia sẻ mà không sợ bị đánh giá.
Một môi trường học an toàn không chỉ là nơi không có đe dọa thể chất, mà còn là nơi cảm xúc được công nhận, lỗi lầm được nhìn nhận như cơ hội để học, chứ không phải để phán xét. Ở đó, giáo viên đóng vai trò trung tâm trong việc kiến tạo không khí lớp học tích cực, làm gương về cảm xúc và cách ứng xử nhân văn.
Thứ ba, phải phát triển hệ thống tham vấn tâm lý học đường chuyên nghiệp, có năng lực phát hiện sớm rối nhiễu cảm xúc, tư vấn cho học sinh và phối hợp với giáo viên – phụ huynh trong các can thiệp phù hợp. Một chuyên viên tâm lý học đường không chỉ hỗ trợ khi sự cố xảy ra, mà còn chủ động xây dựng các chương trình phòng ngừa và giáo dục kỹ năng ứng phó.
Bạo lực học đường, xét đến cùng là tín hiệu của những tổn thương tâm lý chưa được nhận diện và can thiệp kịp thời. Muốn giải quyết tận gốc cần xem chăm sóc sức khỏe tâm thần và giáo dục cảm xúc – xã hội là một phần bắt buộc của giáo dục toàn diện. Khi học sinh được học cách hiểu mình, thấu hiểu người khác và sống trong môi trường an toàn về cảm xúc, đường dây nóng sẽ ít phải hoạt động – không phải vì kém hiệu quả, mà vì không còn quá nhiều nỗi đau cần được kêu cứu.