Chương trình tiên tiến - một ý tưởng sáng tạo

Chương trình tiên tiến - một ý tưởng sáng tạo

(GD&TĐ) - “Tôi rất lấy làm vinh dự được giảng dạy hai khóa học liên tiếp từ năm 2009 – 2010, tổng cộng 110 giờ giảng môn Điện từ Ứng dụng (EE361) cho khoảng 70 sinh viên lớp 06ECE và 07ECE tại Chương trình Tiên tiến ngành Điện tử viễn thông, chuyên ngành hệ thống số (CTTT ECE), Trường Đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng).

Tôi cho rằng, CTTT thật sự là một ý tưởng sáng tạo đang được thực hiện khéo léo. Giống như tất cả những ý tưởng sáng tạo khác, có một số khía cạnh trong đó việc điều chỉnh có thể cần được xem xét đến. Theo đó, những đánh giá sau được xem như là đánh giá thắng thắn nhằm nhận định và điều chỉnh một chương trình đã được xem là tiên tiến”. Đây là những cảm nghĩ của Evan Goldstein, Báo GD&TĐ xin gửi đến bạn đọc thông qua bài dịch của TS. Phạm Văn Tuấn và CN. Nguyễn Thị Miên Thảo - là những giảng viên thân thiết cùng cộng tác với ông tại Đại học Đà Nẵng.

1. Sinh viên

Trên tất cả, có một điều rất rõ ràng là sức mạnh của CTTT ECE chính là sinh viên theo học chương trình. Năng lực của sinh viên được so sánh ngang với những sinh viên của tôi ở trường Đại học Washington (UW), một trường được lựa chọn nhiều nhất ở vùng phía Tây nước Mỹ, phía Bắc của Standford và Trường Đại học California ở Berkeley. Trong khi năng lực của sinh viên CTTT ECE có thể so sánh với sinh viên của khoa Điện, trường UW thì sự chênh lệch về năng lực giữa các sinh viên của ĐHBK ở mức thấp hơn. Sinh viên ĐHBK được trang bị kiến thức đồng đều hơn, với ít sinh viên thiếu sự chuẩn bị đầy đủ hay thiếu động lực. 

Hơn nữa, sinh viên ECE của tôi ở ĐHBK siêng năng hơn ở UW. Các em làm bài tập cẩn thận hơn và không bao giờ quên làm bài tập về nhà so với số chỉ khoảng 3-5% ở UW. Tất cả các em đều hăng hái và nghiêm túc. Các em không thấy khó khăn khi bị bắt phải suy nghĩ tích cực sau giờ học, thường thì theo nhóm nhỏ, về những điều đã được giảng trên lớp.    

Tuy nhiên, sinh viên ECE thường bị điểm thấp hơn chút ít khi làm các bài thi viết so với những sinh viên Khoa Điện, Trường UW. Tôi đã ra 4 bài thi chính môn Điện từ Ứng dụng ở trường ĐHBK, mỗi bài thi được thiết kế tương tự với bài thi mà tôi đã thực hiện trong 12 khóa học môn Trường Điện từ mà tôi đã dạy ở UW. Điểm trung bình ở UW khoảng 70 và ở ECE khoảng 60. 

Một phần của sự khác biệt này có thể là vấn đề ngôn ngữ (các bài kiểm tra của tôi thường dài 3 trang – một điều đáng sợ nếu ngôn ngữ mẹ đẻ của bạn không phải là Tiếng Anh). Một phần có thể là thách thức của việc học môn học về khái niệm phép tính vector và điện động lực chỉ trong khóa học thời gian 1 tháng mà tôi dạy. Nhưng một phần có thể là do sự khác biệt về cách học tích lũy từ trường tiểu học/ trung học trong nước.      

Tham gia một vài tuần trong khóa học Trường điện từ của tôi, sinh viên thường cho rằng khóa học đại diện cho một cách tiếp cận những kiến thức phức tạp giống như đọc một cuốn tiểu thuyết – cách tiếp cận ít nhấn mạnh về tính toán và kỹ thuật mà thiên về những nhận biết trực giác và thị giác sâu sắc về những điều cơ bản và tự nhiên. Điều cực kỳ ấn tượng là tốc độ sinh viên đánh giá về những kiến thức thật sự đạt được và đón nhận nó. Các em nhanh chóng tiếp cận được những kiến thức toán học nâng cao và tìm hiểu sâu hơn các khía cạnh kỹ thuật trong thời gian ngắn.    

ảnh mang tính minh họa/ Internet
 ảnh mang tính minh họa/ Internet

2. Môi trường học tập

Điểm đặc biệt nhất của CTTT ECE – điểm dẫn đến sự khác biệt với chương trình khác mà theo tôi nhận thấy – đó là sự gắn kết mạnh mẽ dẫn đến sự thành công sự phát triển của sinh viên. Các em rất thân với nhau. Các em động viên lẫn nhau để học tập. Đây là điểm làm cho CTTT không giống với những chương trình mà tôi đã dạy.

Sự thật là tôi thích giảng dạy cho sinh viên CTTT ở ĐHBK hơn là giảng dạy cho sinh viên UW. Có 2 lý do: Sinh viên CTTT rất thông minh và nhiệt tình; và các em rất gần gũi với mọi người và thoải mái khi học tập với nhau. Các em cùng nhau học tập và thúc đầy nhau tiến bộ. Theo đó, những điểm thành công chính của chương trình là: (1) cách chọn lựa chọn sinh viên (sinh viên xuất sắc), và (2) sự đoàn kết mạnh mẽ.

Với 40 năm giảng dạy ở những chương trình đại học của Mỹ từ đào tạo kỹ sư vật lý đến sinh học tiến hóa cho đến triết học, tôi chắc chắn rằng điều đảm bảo cho sự thành công của chương trình không phải là cán bộ giảng dạy hay cơ sở vật chất mà đó là chất lượng của sinh viên và tốc độ tương tác lẫn nhau để tiến bộ. Đây là những động cơ chính thúc đẩy học tập và CTTT ECE – ĐHBK rất may mắn có được cả hai điều đó.

3. Giảng dạy và thù lao

Trong thời gian 2 tháng giảng dạy các khóa học ở CTTT – ĐHBK, tôi đã quen biết được khoảng 6 CBGD trẻ có tư cách tốt. Nhìn chung CBGD trẻ ở ĐHBK chưa được hoàn toàn làm nghiên cứu độc lập. Tôi không dám chắc rằng điều này là cần thiết cho họ trong hoàn cảnh này nhưng thật sự họ có thể là những nhà giáo dục tuyệt vời. Nhưng để trở thành những nhà nghiên cứu độc lập thật sự, họ cần phải học xong Tiến sĩ ở nước ngoài hoặc ít nhất cũng làm nghiên cứu ở nước ngoài, ở những trường đại học nghiên cứu ở Úc, Châu Âu, Nhật hay Mỹ. Việc này có thể có nhiều lực đẩy và có ý nghĩa với chính phủ Việt Nam trong việc tìm kiếm nguồn quỹ để cấp học bổng cho mục đích nghiên cứu.

Tôi không hiểu biết nhiều về hệ thống giáo dục này nhưng tôi nghĩ rằng vấn đề cơ bản là: Mức thù lao thấp không làm tăng chất lượng giảng dạy mà thật sự làm giảm nó đi. CBGD trẻ không được làm việc đúng năng lực. Ngược lại, CBGD lâu năm lại làm việc quá tải. Lý do ở đâu? Bởi vì hệ thống đánh giá được xây dựng dựa trên mức tiền lương quá thấp, cùng với hệ thống tính tiền giờ giảng đơn giản, không phân biệt về chất lượng. Hệ thống đánh giá này buộc các giảng viên lâu năm giảng dạy quá tải để tăng thu nhập do đó làm giảm chất lượng giảng dạy. Mức thù lao cần phải được thay đổi để các giảng viên thâm niên không có động cơ giảng dạy quá nhiều mà lại không chất lượng. Khối lượng giảng dạy có thể sau đó được chuyển cho CBDG trẻ, những người có thể làm việc tốt hơn là những CBGD làm quá tải. 

Tôi tin rằng vấn đề này cần phải được xem xét một cách cụ thể, như là các trường ĐH nghiên cứu ở phương Tây, thật là phi thực tế khi tin rằng một ai đó có thể dạy 3 hay 4 khóa học cùng một lúc mà có kết quả tốt. Hai khóa học cùng một lúc là mức giới hạn thiết thực và nếu có thực hiện tốt thì cũng không quá nặng tải. Thật vậy, mặc dù tôi do dự khi nói ra điều này, ở những trường đại học tốt nhất phương Tây thì khối lượng giảng dạy tiêu chuẩn thường là một khóa một học kỳ; thậm chí với trợ giảng và đội ngũ hỗ trợ chấm điểm, giảng dạy một khóa học đạt kết quả tốt cũng cần phải làm việc nhiều. Hai khóa học cho một giảng viên là điều dễ dàng đạt được, không tốn chi phí bằng cách sử dụng đúng mức những CBGD trẻ xuất sắc. Họ không cần phải đào tạo về kỹ năng giảng dạy nữa.

4. Các điều kiện khác

Nhờ có quan hệ đối tác chính với Intel, cơ sở vật chất của chương trình và các phòng thí nghiệm rất đầy đủ cho thí nghiệm và không cần phải có những điều chỉnh gì đáng kể. Còn về quản lý Chương trình, tôi không đưa ra được những cải tiến nào để làm nên một chương trình hoàn hảo hơn vì hệ thống quản lý của CTTT ECE đang vận hành cực kỳ tốt.

Dựa trên hiểu biết khá nhiều của tôi về các giáo sư mời, tôi có một số đề nghị để cải thiện. Đối với các giáo sư mời về kỹ thuật, một điều rõ ràng là ban quản lý của chương trình đang làm rất tốt việc lựa chọn các giáo sư mời. Hai trong số GS được mời la GS. James Peckol và GS. Tai-chang Chen là hai giảng viên xuất sắc nhất ở UW. Điều này cho thấy những lựa chọn đó rất đúng đắn. 

Hơn nữa, ấn tượng chung của tôi là sự quan tâm đến sự chính xác và hiệu quả, giáo sư mời có thể tập trung nhiều hơn, thậm chí chặt chẽ hơn đến nội dung khóa học mang tính kỹ thuật cao. Các khóa học nhẹ nhàng hơn, ít tập trung vào nội dung kỹ thuật hơn— như các khóa học về lãnh đạo, viết kỹ thuật, và hệ thống năng lượng điện— có thể được giảm bớt (cũng có quá nhiều những môn học như thế này trong chương trình học ở Mỹ) hoặc ít nhất cũng do các giảng viên trong nước giảng dạy.

Về đối tác, Trường UW - đối tác chính của CTTT có chương trình đào tạo Kỹ sư Điện rất xuất sắc. Tất nhiên đây cũng chỉ là một trong những chương trình xuất sắc của hệ thống Đại học Mỹ. Giá trị cốt lõi mà ĐHBK nhận được ở đây không phải là chương trình khung, giáo trình hay các nguồn tài nguyên khác vì họ hoàn toàn có thể nhận được từ các trường đối tác khác ở Mỹ. Sự thành công của CTTT ECE nằm ở một khía cạnh vô cùng tinh tế: đó là sự hỗ trợ tuyệt vời đầy trách nhiệm và tình cảm của đội ngũ giáo sư UW, những người vô cùng yêu mến Việt Nam, trân trọng những nỗ lực và sự phát triển của ĐHBK nói chung, của CTTT ECE nói riêng. Tôi mong muốn ĐHBK tiếp tục mở rộng mối quan hệ hợp tác với các đại học đẳng cấp của hệ thống giáo dục đại học Mỹ. Với sự thành công của CTTT ECE, tôi tin chắc các bạn sẽ đạt được những kết quả đáng khích lệ khi hợp tác với mạng lưới các trường đại học nghiên cứu quốc tế có chất lượng tốt.

Đánh giá chung và kết luận

Sự hấp dẫn đặc biệt nhất của CTTT ECE, ĐHBK đó là phong cách riêng mà họ tạo dựng được, một đội ngũ sinh viên chất lượng cao với động lực học tập không ngừng và được huấn luyện đào tạo trong môi trường thuận lợi cho sự phát triển trình độ học vấn chuyên nghiệp.

Hơn nữa, chất lượng tốt của CBGD trẻ và kỹ năng giỏi của đội ngũ quản lý tạo ra một nền tảng chuẩn mực cùng với sự năng động, thông minh và nghiêm túc của sinh viên sẽ giúp các bạn đạt được kết quả học tập tốt nhất có thể.

Như tôi đã nói ở trên, có lẽ phải có những cải thiện trong việc sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ và môi trường học tập của sinh viên. Nhưng so với tiền thù lao của giảng viên và những ảnh hưởng của nó đối với chất lượng giảng dạy thì những điều này vẫn còn quá nhỏ.

Đến nay, chương trình này đã đạt đến giai đoạn trưởng thành. Như một lời kết, tôi cho rằng CTTT là một ý tưởng đầy tính sáng tạo, và nếu hiểu một cách tổng thể, nó đã và đang được thực hiện hoàn hảo đúng với tinh thần của chương trình.

GS. Evan Goldstein (Đại học Washington Seattle, WA 98195)

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Binh sĩ NATO trong một cuộc tập trận tại Estonia.

Trung tâm mới của NATO

GD&TĐ - Bulgaria chuẩn bị xây dựng một khu phức hợp cơ sở vật chất để làm nơi đóng quân cho một lữ đoàn NATO đa quốc gia gồm 3.000 quân nhân.