Bộ Y tế vừa ban hành “Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên giai đoạn 2020-2025”.
Tăng cường kiến thức về sức khoẻ sinh sản cho lớp trẻ
Mặc dù Việt Nam đạt được những thành công nhất định trong chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên nhưng vẫn còn một số những bất cập. Kiến thức, kỹ năng về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của vị thành niên, thanh niên còn hạn chế. Giáo dục về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục chưa tiếp cận được ở diện rộng.
Việc cung cấp thông tin, dịch vụ thân thiện về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục chưa đáp ứng nhu cầu đa dạng của vị thành niên, thanh niên. Tình trạng quan hệ tình dục sớm, quan hệ tình dục không an toàn, mang thai ngoài ý muốn và phá thai không an toàn, nguy cơ lây nhiễm bệnh lây truyền qua đường tình dục của vị thành niên, thanh niên vẫn chưa được cải thiện đáng kể đặc biệt là ở khu vực nông thôn, vùng sâu, các khu công nghiệp.
Kế hoạch tổng thể quốc gia về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ vị thành niên và thanh niên Việt Nam giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020 không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của Việt Nam. Vì vậy, bản Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của vị thành niên, thanh niên giai đoạn 2020-2025 được xây dựng nhằm đưa ra các giải pháp giải quyết những bất cập nêu trên.
Mục tiêu và kế hoạch hành động cụ thể
Kế hoạch ban hành kèm theo Quyết định 3781/QĐ-BYT đã đề ra mục tiêu chung cải thiện tình trạng sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của vị thành niên, thanh niên; góp phần đưa vị thành niên, thanh niên trở thành một lực lượng lao động khỏe mạnh, phát huy hết tiềm năng để đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, hướng tới đạt được các mục tiêu phát triển bền vững. Từ đó, Bộ Y tế đưa ra các mục tiêu cụ thể:
Tăng cường nhận thức của các cấp chính quyền và nâng cao sự hiểu biết của cộng đồng, bao gồm cả phụ huynh, thầy cô giáo, lãnh đạo doanh nghiệp và các cán bộ y tế cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên.
Xây dựng chính sách, kế hoạch can thiệp dựa trên các bằng chứng khoa học thu được từ các cuộc điều tra, khảo sát và nghiên cứu khoa học. Tập trung các nhóm đối tượng ưu tiên: vị thành niên lứa tuổi từ 10 đến14; vị thành niên, thanh niên từ 15 đến 24 tuổi chưa kết hôn; vị thành niên, thanh niên khuyết tật; người di cư, lao động trẻ tại các khu công nghiệp và vị thành niên, thanh niên dân tộc thiểu số. Lựa chọn các can thiệp phù hợp với các điều kiện tự nhiên và xã hội, tôn trọng yếu tố văn hoá tâm lý, phong tục, tập quán; huy động tối đa sự tham gia của người dân và cộng đồng trong việc triển khai công tác truyền thông và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên.
Đẩy mạnh sự tham gia tích cực, chủ động và có ý nghĩa của vị thành niên, thanh niên trong xây dựng chính sách, chương trình, kế hoạch can thiệp, triển khai thực hiện và theo dõi, giám sát, đánh giá về cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục.
Đi đôi với việc tăng cường tính sẵn có và chất lượng của mạng lưới cung cấp dịch vụ, cần tăng cường mức độ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục của vị thành niên, thanh niên thông qua việc truyền thông, giáo dục sức khỏe, chú trọng giáo dục sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục toàn diện cho vị thành niên, thanh niên; hạn chế những rào cản, khó khăn khi tiếp cận đến dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên.
Gắn kết chặt chẽ các chương trình dự án can thiệp về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục với bình đẳng giới, phòng chống bạo lực trên cơ sở giới trong nhóm vị thành niên, thanh niên, các chương trình y tế liên quan như chương trình Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, HIV/AIDS, … và các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác.
Tiếp tục củng cố hệ thống thông tin về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên, trong đó bao gồm cả những thông tin từ hệ thống y tế trong và ngoài công lập, nâng cao chất lượng thu thập, báo cáo và sử dụng thông tin dữ liệu phục vụ cho công tác lập kế hoạch dựa trên bằng chứng và công tác tuyên truyền vận động chính sách, nguồn lực, cho các mục tiêu về sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành sức khoẻ sinh sản, sức khoẻ tình dục cho vị thành niên, thanh niên.