Chiến lược sống còn để giáo dục nghề nghiệp phản ứng kịp thời với xu thế toàn cầu

GD&TĐ - Trao quyền tự chủ là chiến lược sống còn đảm bảo hệ thống giáo dục nghề nghiệp linh hoạt, phản ứng kịp thời với các xu thế toàn cầu.

Ảnh minh họa/ITN.
Ảnh minh họa/ITN.

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, để phát huy vai trò và sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp (GDNN) trong bối cảnh thị trường lao động đang được định hình lại nhanh chóng dưới tác động những tiến bộ về công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, thì trao quyền tự chủ là một chiến lược sống còn để đảm bảo hệ thống này có thể linh hoạt, phản ứng kịp thời với các xu thế toàn cầu.

Về cơ bản, tự chủ là một phương thức quản lý, theo đó cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong phạm vi các quy định của pháp luật, được trao một số quyền quyết định những vấn đề của chính mình trong tổ chức và hoạt động.

Tuy nhiên, tự chủ không có mục đích tự thân. Mục đích của tự chủ là nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo trong phạm vi vai trò, sứ mệnh và nhiệm vụ được trao cho cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Vì thế, sự khác nhau về tự chủ ở các nước chủ yếu là ở phạm vi và mức độ tự chủ mà cơ sở giáo dục nghề nghiệp được thực hiện tùy theo nhận thức và cách đánh giá của từng nước về tác động của tự chủ lên việc thực hiện sứ mệnh và nhiệm vụ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp.

Theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, ở nước ta, quyền tự chủ là vấn đề luôn có nhiều tranh cãi về cách hiểu, cách quy định và cách tổ chức thực hiện.

Trước đây, với cách tiếp cận nặng về quản lý thì quyền tự chủ được hiểu và được quy định với nhiều ràng buộc và vì vậy tạo thành nhiều rào cản trong tổ chức thực hiện.

Giờ đây, với cách tiếp cận hướng tới kiến tạo phát triển, Nghị quyết số 71-NQ/TW đã mở đường để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp được bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện.

TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến làm rõ: quyền tự chủ toàn diện có nghĩa là phạm vi tự chủ được mở rộng đến mọi lĩnh vực về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục nghề nghiệp; bao gồm quyền tự chủ về đào tạo, về nghiên cứu khoa học, về tổ chức, về nhân sự, về tài chính, về hợp tác doanh nghiệp và hợp tác quốc tế.

Quyền tự chủ đầy đủ có nghĩa là, trong mỗi lĩnh vực kể trên, mức độ tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp không bị giới hạn bởi mức độ tự chủ tài chính hay quy định hành chính, mà được trao quyền quyết định trực tiếp, chủ động trong việc quản lý và phát triển các hoạt động chuyên môn của mình.

Đây là cách tiếp cận đột phá nhằm tạo điều kiện tối ưu để các cơ sở giáo dục nghề nghiệp linh hoạt, hiệu quả và sáng tạo đáp ứng nhanh các biến động của thị trường lao động và công nghệ.

Với cách hiểu như vậy, TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến cho rằng, quyền tự chủ đầy đủ và toàn diện của cơ sở giáo dục nghề nghiệp được thể hiện trong bảng dưới đây:

TT
Lĩnh vực tự chủ
Tự chủ đầy đủ, toàn diện
1
Đào tạo
- Tự chủ xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình đào tạo, mở ngành nghề mới, tuyển sinh, phương pháp giảng dạy, đánh giá kết quả học tập, cấp văn bằng, chứng chỉ.
2
Nghiên cứu khoa học
- Tự chủ xác định định hướng nghiên cứu, chủ trì các đề tài, dự án khoa học kỹ thuật; chuyển giao công nghệ; đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ vào đào tạo và sản xuất.
3
Tổ chức
- Tự chủ quyết định mô hình tổ chức, cơ cấu bộ máy, số lượng và vị trí việc làm; thành lập, sáp nhập, chia tách, giải thể các đơn vị trực thuộc.
4
Nhân sự
- Tự chủ tuyển dụng, bổ nhiệm, sử dụng, quản lý cán bộ, giảng viên, nhân viên; xây dựng chính sách tiền lương, phụ cấp, khen thưởng và kỷ luật phù hợp.
5
Tài chính
- Tự chủ trong quản lý, sử dụng ngân sách, nguồn thu, đầu tư tài sản; quyết định cơ chế tài chính phù hợp với nhiệm vụ và quy mô hoạt động của cơ sở.
6
Hợp tác doanh nghiệp
- Tự chủ ký kết, thực hiện hợp tác với doanh nghiệp trong đào tạo, thực hành nghề, nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ.
7
Hợp tác quốc tế
- Tự chủ thiết lập quan hệ hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi chuyên gia, học sinh, sinh viên và phát triển chương trình liên kết quốc tế.

Tuy nhiên, các quyền tự chủ trên đều phải hướng tới phát huy vai trò và sứ mệnh của giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm để giáo dục nghề nghiệp không chỉ cung cấp phẩm chất và năng lực cho người học trong việc tìm việc làm và tự tạo việc làm, mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và bền vững môi trường.

Nhìn từ góc độ của Nghị quyết số 71-NQ/TW, các quyền tự chủ này phải nằm trong một khung pháp lý chung nhằm cải cách, hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp, tạo đột phá phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao.

Một cách cụ thể, theo TSKH Phạm Đỗ Nhật Tiến, có thể đặt quyền tự chủ toàn diện và đầy đủ của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong mối quan hệ gắn kết với các mục tiêu phải đạt được như sau:

TT
Lĩnh vực tự chủ
Mục tiêu hướng tới
Khung pháp lý
1
Đào tạo và nghiên cứu khoa học
Nâng tầm các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trở thành các cơ sở hiện đại và chuẩn hóa về đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng nghề cao và ứng dụng công nghệ trong các hệ sinh thái nghiên cứu và sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sẵn sàng cho tương lai.
- Chuyển đổi giáo dục nghề nghiệp từ mô hình đào tạo thiên về nhà trường sang mô hình đào tạo kết nối doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh;
- Phát triển hệ thống giáo dục nghề nghiệp mở, linh hoạt, liên thông, đa dạng theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế.
2
Tổ chức và nhân sự
Tạo ra một cơ chế quản trị tinh gọn, cho phép cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ động trong việc xây dựng đội ngũ và bộ máy tổ chức, từ đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động.
- Hoàn thiện các quy định về biên chế, tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm chức danh nhà giáo theo thông lệ quốc tế;
- Xây dựng chính sách huy động người giỏi ngoài lực lượng nhà giáo tham gia giảng dạy;
- Thực hiện nguyên tắc không tổ chức hội đồng trường và bí thư cấp ủy kiêm người đứng đầu cơ sở giáo dục.
3
Tài chính
Đa dạng hóa nguồn lực tài chính, giảm sự phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, tạo động lực cạnh tranh lành mạnh và thu hút đầu tư xã hội để phát triển bền vững, thực hiện công bằng xã hội.
- Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp đầu tư vào GDNN;
- Xây dựng khung pháp lý để hình thành quỹ tài trợ và huy động vốn từ cộng đồng;
- Ưu tiên vốn tín dụng cho các dự án phát triển giáo dục nghề nghiệp.
4
Hợp tác doanh nghiệp
Xây dựng mối quan hệ bền vững, đôi bên cùng có lợi giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy hợp tác nhà trường-doanh nghiệp;
- Tăng cường đào tạo tại doanh nghiệp, nhất là đào tạo kỹ năng nghề trong các lĩnh vực công nghệ cao;
- Khuyến khích doanh nghiệp thành lập cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
5
Hợp tác quốc tế
Thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược, giúp các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiếp cận công nghệ, chương trình đào tạo và tiêu chuẩn quản lý tiên tiến của thế giới, đồng thời gắn kết chặt chẽ với thị trường lao động.
- Nâng chuẩn cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiệm cận khu vực và quốc tế;
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài trong giáo dục nghề nghiệp; thúc đẩy hợp tác, liên kết đào tạo với cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam;
- Đẩy mạnh trao đổi nhà giáo và người học giữa các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong nước với cơ sở giáo dục nghề nghiệp tiên tiến của khu vực và quốc tế.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Mỗi ngày tung ra 150 UAV tấn công

Mỗi ngày tung ra 150 UAV tấn công

GD&TĐ - Trong 8 tháng đầu năm 2025, số lượng UAV Nga tấn công lãnh thổ Ukraine đã tăng gấp 10 lần so với cùng kỳ năm 2024, khoảng 140-150 UAV mỗi ngày.

Lực lượng an ninh Ba Lan tại hiện trường chiếc UAV rơi hôm 10 tháng 9.

Toan tính của vụ UAV rơi ở Ba Lan

GD&TĐ - Vụ máy bay không người lái (UAV) gần đây ở Ba Lan được cho là một hành động khiêu khích được dàn dựng với sự hỗ trợ của Ukraine để chống Nga.