Đây là những câu thơ của Nhà giáo Nhân dân, Anh hùng Lao động Nguyễn Đức Thìn - “cha đẻ” phong trào “Nghìn việc tốt”, dành tặng thiếu nhi trong Hành trình đến địa chỉ đỏ với chủ đề “Em yêu Tổ quốc Việt Nam” tại Cao Bằng.
Tuổi thơ gắn liền với nhiều biến cố lịch sử
Sinh năm 1940 ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), một vùng quê có truyền thống yêu nước và hiếu học, thầy Thìn còn nhớ như in ngày 3 tháng 3 (âm lịch) năm 1947. Khi cả làng chuẩn bị ngày giỗ Vua Lý Thái Tổ thì giặc Pháp bất ngờ tấn công. Theo cha chạy tản cư sang Phù Khê, cậu bé Thìn được học tiếp tiểu học ở ngay đình làng. Máy bay quân Pháp lại ném bom phá hoại, cậu lại theo cha chạy tản cư lên Phú Bình (Thái Nguyên), học tiếp ở Trường Hà Châu. Đầu năm 1950, gia đình quyết định trở về quê, dù biết phải sống trong kìm kẹp, bởi giặc đã chiếm đóng ở đây từ giữa năm 1949.
Về quê, trường đã không còn, Thìn theo học thầy Đám Chinh. Lớp học không có bàn ghế, không sách giáo khoa, thầy nhớ đến đâu dạy trò đến đó. Lúc này, cậu bé Thìn đã là đội viên Đội thiếu niên du kích Đình Bảng.
Nhớ lại ngày được kết nạp, thầy Thìn tâm sự: “Ngày đó, không có quốc kỳ, không hát quốc ca, tôi được anh Tám, anh Hoàn - Đội trưởng, Đội phó Đội Thiếu niên du kích Đình Bảng - tuyên bố trở thành đội viên. Nhiệm vụ của tôi là đi chơi ở khu đình Đình Bảng, theo dõi địch xem có bao nhiêu ô tô, súng ống nào, lính gì. Để hoàn thành nhiệm vụ, tôi chơi những bản nhạc dân ca Pháp, làm ống kính vạn hoa quay mỗi khi địch đến. Vì vậy, vừa có thể đánh lạc hướng địch và thoải mái thu thập tin tức.
Thành tựu lớn nhất là tôi cùng các thành viên Đội Thiếu niên du kích bảo vệ vững chắc ngôi đình Đình Bảng và nắm bắt nhiều thông tin quan trọng báo cáo cho tổ chức. Ngoài ra, Đội Thiếu niên du kích đã cùng cha anh đánh địch lập công xuất sắc, bí mật lấy được của địch hàng chục tấn đạn, cùng nhiều máy thông tin, bộ đàm, dầu mỡ, lựu đạn... chuyển lên chiến khu cho du kích và bộ đội địa phương...”.
Sau biến cố của gia đình, nhất là khi cha mất, cậu bé Thìn sống cuộc sống vô cùng gian khó. Vừa học, vừa phải đi làm thuê kiếm sống. Nhưng càng gian khổ, Thìn càng say mê học.
Năm 1958, tròn 18 tuổi, Thìn tốt nghiệp cấp 2. Là học sinh giỏi, có thể học tiếp, nhưng anh đã quyết định trở về làm ruộng. Làm xã viên hợp tác xã chưa lâu, Thìn bất ngờ được giao nhiệm vụ mới: Giáo viên dạy lớp vỡ lòng. Tháng 9/1959, thầy Nguyễn Đức Thìn là giáo viên dân lập, kiêm Bí thư Chi đoàn, Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Trường cấp I Đình Bảng và cũng đã học xong chương trình bổ túc cấp III.
Vừa dạy học, thầy Thìn tranh thủ thời gian đi học hàm thụ trung cấp sư phạm. Tháng 8/1961, học xong, thầy có quyết định lên dạy cấp 2 và được điều sang Trường THCS xã Tam Sơn. Biết thầy Thìn có kinh nghiệm trong việc gây dựng phong trào ở Đình Bảng, nên nhà trường giao thầy làm Phó Bí thư Chi đoàn phụ trách thiếu nhi.
Thầy cũng là người khởi xướng phong trào đọc và làm theo gương tốt trên Báo Thiếu niên Tiền phong với câu ca: “Làm nhiều việc tốt bao nhiêu/ Bác Hồ càng quý càng yêu em nhiều”.
Thầy giáo Nguyễn Đức Thìn kể: “Khi biết chuyện này, Bác Hồ đã rất hoan nghênh, và Người đã nêu ra khẩu hiệu: “Làm nghìn việc tốt - chống Mỹ cứu nước”. Một vinh dự thật đặc biệt, đó là ngày mùng Một - Tết Đinh Mùi 1967, Bác Hồ về thăm Trường Tam Sơn, Bác nói: “Các cháu hãy làm nhiều việc tốt hơn nữa, để xứng đáng là cháu ngoan của Bác!”.
Theo thầy Thìn, làm nghìn việc tốt không đơn thuần chỉ là 1.000 việc tốt. Từ “nghìn” không có một con số cụ thể, nó mang nghĩa là rất nhiều, không đếm được. Ban đầu, phong trào được phát động trong hàng ngũ thiếu niên, nhi đồng nhằm giáo dục con người thói quen làm việc tốt từ khi còn nhỏ. Đó là các học sinh cắt phiên thay nhau chăm sóc, chép hộ bài khi bạn ốm; khi bạn bị đau chân, các em phân công nhau cõng bạn đến lớp... Về nhà, các em là người chăn thả trâu bò, vỗ béo đàn lợn, chăm sóc đàn gà, giúp đỡ cha mẹ cơm nước. Từ đó, hàng loạt các khẩu hiệu như “Xóm thôn nghìn việc tốt”, “Gia đình nghìn việc tốt”, “Lớp học nghìn việc tốt”… được triển khai.
Dạy học trong trại phong
Khi đang phơi phới sự nghiệp, thầy giáo Thìn phát hiện bị mắc bệnh phong. Chân tay co rút, di chứng còn lại trên cơ thể ông đến tận hôm nay. “Đầu tiên tôi thấy các ngón tay co lại, mất cảm giác, không biết thế nào là đau đớn, nóng lạnh. Lúc đó, Ban giám hiệu trường mới bảo tôi là phải điều trị đi”, thầy Thìn nhớ lại.
Thời điểm đó, bệnh phong được coi như chứng nan y, vô phương cứu chữa. Đau đớn dày vò thân thể, thế nhưng thầy Thìn vẫn lạc quan: “Tôi chọn cách sống nhìn xuống chứ không nhìn lên. Nhìn xuống để thấy nhiều người khổ hơn mình mà người ta vẫn sống được, thì tại sao mình phải tuyệt vọng. Tôi là người bồi dưỡng em Lê Văn Đắc – người bị địch chặt cụt 2 tay – để báo cáo điển hình Đại hội Chiến sĩ Thành cổ tỉnh Quảng Trị. Tôi rất cảm phục cậu bé ngậm bút vào miệng rồi kẹp bút vào chân để viết. Một đứa trẻ còn có nghị lực tuyệt vời như thế thì mình mới bị hỏng tay thôi, có gì mà thất vọng”.
Đồng thời, khi đi điều trị trong Bệnh viện Phong Quỳnh Lập (Nghệ An), cũng chính hình ảnh Bác Hồ mặc áo choàng thăm bệnh nhân đã tạo động lực cho thầy Thìn vượt qua định kiến xã hội và những cơn đau. “Tôi nhờ họa sĩ Nguyễn Hữu Thơ, là người cùng chữa bệnh tại bệnh viện, vẽ lại bức tranh Bác Hồ đi thăm bệnh nhân. Từ đó đã tạo động lực cho tôi lạc quan hơn về cuộc sống và luôn tâm niệm đã bệnh về thể xác, chớ bệnh về tâm hồn”, thầy Thìn chia sẻ.
Bệnh tật là thế, nhưng thấy các cháu nhỏ bị bệnh không được học hành, thầy đã đề nghị lãnh đạo bệnh viện cho mở trường học. Sau 3 năm điều trị, bằng bản lĩnh và ý chí thép, thầy Thìn đã chiến thắng bệnh tật, trở về quê hương, tiếp tục cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.
Không chấp nhận đôi bàn tay tàn tật, mất cảm giác do di chứng của bệnh phong, thầy vẫn chăm chỉ luyện cầm cây bút, viên phấn. Trải qua quá trình tập luyện, đôi bàn tay teo cơ do liệt dây thần kinh ngoại biên của thầy dần dần quen với việc cầm phấn. Sau này, thầy cầm bút gõ trên bàn phím máy tính sáng tác thơ văn.
Ngoài đề tài khoa học “Nghìn việc tốt”, thầy Nguyễn Đức Thìn còn thành công với các đề tài “Thắp sáng ngọn đèn Ngô Gia Tự, noi gương Ngô Gia Tự đi theo đường cách mạng của Bác Hồ” (năm 1961) và đề tài “Tổ chức học sinh hoạt động sử học” giúp học sinh được tiếp xúc với các nhân vật lịch sử, tìm hiểu mốc lịch sử và viết sử.
Cả ba đề tài này của thầy đều được Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cấp bằng Lao động sáng tạo. Ngoài ra, thầy Thìn còn đóng góp hàng chục công trình khoa học khác có giá trị. Với những đóng góp này, thầy được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân (tháng 8/1988) và Anh hùng Lao động (tháng 8/1985). Thầy cũng là 1 trong 20 cá nhân tiêu biểu được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Làm việc đến năm 1991, ông nghỉ hưu.
Giờ đây, ngoài 80 tuổi nhưng cuộc sống của ông vẫn không ngừng nghỉ. Hằng ngày, ông đạp chiếc xe cà tàng ra đền Đô. Ở đây, ông vừa là thành viên Ban Quản lý di tích, vừa là hướng dẫn viên, vừa nghiên cứu lịch sử triều Lý, vừa viết báo, chụp ảnh, viết sử sách cho quê hương.
Đến nay, mỗi dịp trở về đền Đô, mọi người không khỏi xúc động khi thấy hình ảnh thầy giáo già với thân hình nhỏ bé cặm cụi ghi lại lịch sử ngôi đền và làm công tác thuyết minh; Đồng thời truyền dạy kỹ năng tuyên truyền cho hàng chục hướng dẫn viên du lịch. Ngoài ra, ông còn sáng tác thơ văn, tự đánh máy hàng nghìn trang bản thảo, xuất bản 15 đầu sách, trong đó có 8 tập thơ và đặc biệt, cuốn tự truyện “Chuyện cuộc đời” dày gần 500 trang là tư liệu quý, kịch bản hay cho các nhà làm phim xây dựng hơn 10 bộ phim tài liệu...
Với lòng nhiệt huyết, kiến thức sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực, ông được mời đi nói chuyện, giáo dục truyền thống và truyền cảm hứng lao động sáng tạo, bồi dưỡng nhân cách cho thế hệ trẻ. Không chỉ gieo chữ, ông còn gieo tâm hồn, truyền ngọn lửa tin yêu cuộc sống trong các thế hệ.
Mới đây, nhân kỉ niệm ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong HCM, xưng “anh” với các em thiếu nhi, thầy Thìn nói: “Anh muốn anh và các em làm nghìn việc tốt, trừ việc xấu, cộng lên yêu thương, chia niềm thông cảm. Nếu chúng ta sống tử tế với nhau như thế cái tốt phải làm gương, cái xấu phải co lại. Tất cả chúng ta sẽ trở thành những con người nhân ái”.