Phiên tòa xét xử sơ thẩm Vụ án hành chính ông Hoàng Xuân Quế kiện quyết định hủy bằng tiến sĩ của Bộ GD&ĐT sáng 14/12 là phiên tòa mở lại lần thứ 7 kể từ năm 2013.
Trong suốt 5 năm qua, với tinh thần thượng tôn pháp luật, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nghiêm túc thực hiện đầy đủ các yêu cầu của Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội.
Tại các phiên tòa đã mở, Người đại diện theo ủy quyền của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT và các luật sư đã trình bày quan điểm khẳng định việc Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thụ lý giải quyết tố cáo của công dân, ra Kết luận nội dung tố cáo, ban hành Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 thu hồi bằng tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế là có cơ sở thực tế và căn cứ pháp lý vững chắc. Liên quan đến vụ việc này, Bộ GD&ĐT thông tin rõ như sau:
Khái quát quá trình
Tháng 6 năm 2013, Bộ GD&ĐT nhận được phản ánh của báo Nhân dân về việc ông Hoàng Xuân Quế “Đạo văn”. Bộ đã yêu cầu trường ĐH KTQD xác minh báo cáo Bộ.
Tháng 7/2013, Bộ nhận được đơn tố cáo chính danh do Thường trực UBVH GDTNTN&NĐ của Quốc Hội chuyển.
Bộ đã tiến hành thụ lý giải quyết tố cáo theo đúng quy định. Ngày 11/4/2013 Bộ đã ký quyết định 4674/QĐ-BGDDT thu hồi bằng tiến sĩ ngành kinh tế của ông Hoàng Xuân Quế.
Ngày 28/10/2013, ông Hoàng Xuân Quế đã khởi kiện Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (khi đó là Nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận) ra tòa hành chính Tòa án Nhân dân TP Hà Nội.
Từ 2013 tới nay, Tòa án nhân dân TP Hà Nội đã nhiều lần dừng, hoãn phiên toà, tạm đình chỉ vụ án; trong đó, một số lần không đúng quy định tổ tụng, để vụ án kéo dài 5 năm, trái quy định về tố tụng hành chính.
Về hành vi sao chép luận án của ông Hoàng Xuân Quế
Ông Hoàng Xuân Quế đã sao chép luận án tiến sĩ của ông Mai Thanh Quế
Qua đối chiếu cuốn luận án tiến sĩ “Giải pháp hoàn thiện các công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ ở Việt Nam” của ông Hoàng Xuân Quế (bảo vệ năm 2003), với cuốn luận án tiến sĩ “Các giải pháp hoàn thiện việc cung ứng và kiểm soát khối lượng tiền lưu thông của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” của ông Mai Thanh Quế (bảo vệ năm 2002 - cả hai cuốn cùng được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia), Tổ xác minh của Bộ GD&ĐT xác định:
Mức độ sao chép (hoàn toàn giống nhau về nội dung) giữa cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế với cuốn luận án tiến sĩ của ông Mai Thanh Quế là 52,5 trang/159 trang; cụ thể: Chương I sao chép 17 trang/ 54 trang; chương II sao chép 6,5 trang/ 61 trang; chương III sao chép 29 trang/ 44 trang.
Trong phần “Tài liệu tham khảo” cuối cuốn luận án, ông Hoàng Xuân Quế hoàn toàn không nhắc tới cuốn luận án tiến sĩ “Các giải pháp hoàn thiện việc cung ứng và kiểm soát khối lượng tiền lưu thông của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong nền kinh tế thị trường” của ông Mai Thanh Quế.
Hành vi sao chép của ông Hoàng Xuân Quế là rất rõ, mức độ sao chép rất nghiêm trọng. Cụ thể:
Cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế tại Thư viện Quốc gia mà Bộ GD&ĐT đang thu giữ, chính là cuốn luận án đã được ông Hoàng Xuân Quế sử dụng để bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Nhà nước ngày 26/10/2003.
Cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế lưu giữ tại Thư viện Quốc gia được cơ quan này tiếp nhận, lưu giữ theo đúng quy định của pháp luật.
Thư viện Quốc gia đã đóng dấu tại trang bìa phụ và trang 17 cuốn luận án; đã cấp “Giấy biên nhận” cho ông Hoàng Xuân Quế để ông Quế nộp cho Bộ GD&ĐT. Không có căn cứ để cho rằng cuốn luận án tiến sĩ này đã bị ai đó “đánh tráo” như ông Quế đã từng nói.
Kết quả xác minh của Tổ xác minh của Bộ GD&ĐT cho thấy, nội dung cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế được lưu giữ tại Thư viện Quốc gia hoàn toàn trùng khớp, phù hợp với các tài liệu khác của ông Hoàng Xuân Quế:
Trùng khớp với cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế được lưu giữ tại Thư viện Đại học Kinh tế quốc dân;
Trùng khớp với cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế được lưu giữ tại Thư viện Khoa học tổng hợp TP Hồ Chí Minh;
Trùng khớp với nội dung trong cuốn sách “Bàn về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay”, tác giả Hoàng Xuân Quế, (Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội xuất bản năm 2004).
Với những sự trùng khớp như vậy, không có căn cứ để cho rằng cuốn luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế lưu giữ tại Thư viện Quốc gia là do ông Hoàng Xuân Quế “nộp nhầm”, không phải là cuốn luận án tiến sĩ đã được ông Hoàng Xuân Quế bảo vệ năm 2003.
Không thể phủ nhận giá trị pháp lý của 3 cuốn luận án được Bộ GD&ĐT sử dụng làm căn cứ đối sánh nội dung sao chép.
Về ba cuốn luận án được Bộ GDĐT sử dụng làm căn cứ đối chiếu, so sánh nội dung sao chép là 3 cuốn luận án của ông Hoàng Xuân Quế được lưu giữ chính thức theo đúng tiến trình đào tạo, cấp bằng tại các địa chỉ: Thư viện Quốc gia, Thư viện Trường Đại học KTQD (cơ sở đào tạo) và Thư viện Khoa học Tổng hợp TP.HCM. Trong đó:
Cuốn Luận án nộp tại Thư viện Quốc gia là cuốn Luận án theo quy định phải lưu giữ bắt buộc sau khi NCS bảo vệ xong Luận án tại Hội đồng chấm luận án tiến sỹ cấp nhà nước để được cấp bằng tiến sỹ.
Cuốn Luận án nộp tại Thư viện Trường Đại học Kinh tế Quốc dân sau khi bảo vệ là hồ sơ lưu của quá trình đào tạo của NCS tại Trường.
Cuốn tại Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh là cuốn luận án ông Quế nộp cho Bộ GD&ĐT để làm thủ tục thành lập Hội đồng chấm luận án tiến sỹ cấp nhà nước (trước khi bảo vệ).
Luận án này được Bộ GDĐT chuyển cho Thư viện Khoa học tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh lưu giữ từ năm 2008, được Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM vào Sổ đăng ký cá biệt tài sản Thư viện ngày 18/02/2008, nhập kho ngày 19/3/2008 số TQ:52/2008 (việc chuyển luận án này cùng với nhiều luận án khác, trên cơ sở đề nghị của Thư viện Khoa học tổng hợp TP.HCM để lưu giữ kết hợp với khai thác, sử dụng và được Bộ GDĐT chấp thuận).
Các cuốn luận án gốc nêu trên đã được Bộ GDĐT thu thập và lưu giữ đầy đủ trong hồ sơ vụ việc, khi thu nhận các quyển luận án để làm căn cứ đối chiếu nội dung sao chép đều có đầy đủ biên bản và xác nhận của các Thư viện.
Về chữ ký tại Lời cam đoan trên các quyển luận án: Tại thời điểm 2003 khi ông Quế bảo vệ luận án, không có quy định nào bắt buộc nghiên cứu sinh phải ký vào Lời cam đoan.
Phần hướng dẫn về cách trình bày đối với một luận án tiến sĩ theo Công văn số 8217/SĐH ngày 01/9/2000 có nội dung mô tả mẫu bố cục của Luận án qua trang Mục lục trong đó phần Lời cam đoan được bố trí sau trang bìa phụ của luận án, không quy định về việc nghiên cứu sinh phải ký vào Lời cam đoan (Quy chế đào tạo sau đại học ban hành theo Quyết định số 18/2000/QĐ-BGD&ĐT ngày 08/6/2000 và Quy chế tiến sỹ hiện hành đều không quy định bắt buộc nghiên cứu sinh phải ký tên vào phần lời cam đoan của luận án).
Vì không có quy định bắt buộc nên thực tế có rất nhiều trường hợp không ký tên vào Lời cam đoan khi nộp luận án cho Thư viện.
Tại biên bản làm việc với Lãnh đạo Thư viện Quốc gia vào ngày 30/9/2013, Thư viện quốc gia khẳng định: Quy trình thu nhận luận án tiến sĩ tại Thư viện quốc gia vào thời điểm 2002-2003 không có quy định bắt buộc nghiên cứu sinh phải ký vào lời cam đoan của cuốn luận án khi nộp cho Thư viện.
Do đó Thư viện không kiểm soát chữ ký của nghiên cứu sinh vào lời cam đoan của luận án khi tiến hành thu nhận. Khi kiểm tra xác suất 12 cuốn luận án tiến sĩ lưu tại kho của Thư viện Quốc gia, tại thời điểm năm 2002, 2003, 2004 cho thấy có đến 5/12 cuốn luận án nghiên cứu sinh không ký vào phần Lời cam đoan (trong đó có cuốn luận án của ông Hoàng Xuân Quế và cả luận án của ông Mai Thanh Quế).
Kiểm tra xác suất 10 cuốn lưu tại Thư viện Trường KTQD vào thời điểm 2002-2004 có 5/10 cuốn không có chữ ký của nghiên cứu sinh vào Lời cam đoan.
Như vậy, việc không có chữ ký của nghiên cứu sinh vào phần Lời cam đoan của luận án không làm ảnh hưởng đến giá trị pháp lý của cuốn luận án. Ba cuốn luận án nêu trên có tính pháp lý đầy đủ vì đều được tiếp nhận, lưu giữ trên cơ sở quy định của pháp luật và do cơ quan, đơn vị có thẩm quyền quản lý.
Các cuốn luận án mà Bộ dùng làm căn cứ đối chiếu, kết luận sao chép nêu trên còn trùng với nội dung cuốn sách “Bàn về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay” do một mình ông Hoàng Xuân Quế đứng tên tác giả, xuất bản năm 2004. Những nội dung bị tố cáo sao chép trong luận án cũng được sử dụng trong cuốn sách này.
Vì vậy, không thể phủ nhận 3 cuốn luận án đang được lưu giữ chính thức tại các thư viện nêu trên là của ông Hoàng Xuân Quế.
Cuốn luận án của ông Hoàng Xuân Quế nộp lại không có cơ sở pháp lý.
Về 3 cuốn luận án do ông Hoàng Xuân Quế nộp lại và khẳng định là bản chính thức được dùng để bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án tiến sỹ cấp nhà nước ngày 26/10/2003, Bộ GDĐT đã xem xét nhận thấy nhiều điểm không đúng quy định:
Hai cuốn bìa mềm, một cuốn bìa cứng trong khi quy định bắt buộc phải đóng bìa cứng; 3 cuốn LATS này không bảo đảm tính pháp lý (việc lưu giữ tại nhà các thành viên hội đồng chấm luận án là không bắt buộc theo quy định pháp luật) và phương pháp thu thập không bảo đảm tính khách quan.
Hội đồng chấm luận án đã giải tán sau khi hoàn thành nhiệm vụ và không ai quy định Hội đồng phải lưu giữ luận án. Vì vậy, những cuốn luận án “được xin lại” từ thành viên hội đồng môt cách không khách quan, với hình thức không đồng nhất, không đúng quy định. Viện Khoa học hình sự (Bộ Công an) đã khẳng định, những chỗ bị tố cáo sao chép là font chữ Times new Roman không phải là căn cứ để giải quyết tố cáo.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thu hồi bằng tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế là hoàn toàn đúng quy định pháp luật
Về thời hạn: Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thụ lý giải quyết Đơn tố cáo của công dân đối với ông Hoàng Xuân Quế tuân thủ đúng quy định tại Luật Tố cáo; theo đó, không có quy định nào hạn chế về thời hạn thụ lý giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, công dân.
Về thẩm quyền: Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thụ lý giải quyết Đơn tố cáo của công dân đối với ông Hoàng Xuân Quế, và ký ban hành Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 thu hồi bằng tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế, là hoàn toàn đúng thẩm quyền, theo quy định tại Luật Tố cáo; khoản 7 Điều 6 và khoản 1 Điều 12 Quy định Quản lý văn bằng, chứng chỉ giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục sau đại học ban hành kèm theo Quyết định số 52/2002/QĐ/BGDĐT ngày 26/12/2002 (viết tắt là Quy định Văn bằng, chứng chỉ); điểm a khoản 1 và khoản 3 Điều 22 Quy chế Văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân ban hành kèm theo Quyết định số 33/2007/QĐ-BGDĐT ngày 20/6/2007 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT (viết tắt là Quy chế Văn bằng, chứng chỉ); cụ thể:
Khoản 7 Điều 6 Quy định Văn bằng, chứng chỉ quy định: “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp bằng tiến sĩ”.
Khoản 1 Điều 12 Quy định Văn bằng, chứng chỉ quy định: “Cấp có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ nào thì có quyền thu hồi văn bằng, chứng chỉ đó”.
Điểm a khoản 1 Điều 22Quy chế Văn bằng, chứng chỉ quy định: “1. Văn bằng, chứng chỉ bị thu hồi trong các trường hợp sau đây: a) Có hành vi gian lận trong học tập, trong thi cử, tuyển sinh hoặc gian lận trong việc làm hồ sơ để được cấp văn bằng, chứng chỉ”.
Khoản 3 Điều 22 Quy chế Văn bằng, chứng chỉ quy định: “3. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quyết định thu hồi văn bằng, chứng chỉ khi trực tiếp phát hiện vi phạm các quy định tại khoản 1 Điều này”.
- Về căn cứ pháp lý: Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ban hành Quyết định số 4674 ngày 11/10/2013 thu hồi bằng tiến sĩ của ông Quế là dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể sau đây:
Hành vi sao chép của ông Hoàng Xuân Quế vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 20 Quy chế Đào tạo sau đại học ban hành kèm theo Quyết định số 18/2000/QĐ-BGDĐT ngày 08/6/2000 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT:
“Nhất thiết phải dẫn nguồn tài liệu hoặc kết quả của người khác được sử dụng trong luận án. Phải nêu rõ cả việc sử dụng những đề xuất hoặc kết quả của đồng tác giả. Nếu sử dụng tài liệu của người khác (trích dẫn bảng, biểu, công thức, đồ thị cùng những tài liệu khác) mà không chú dẫn tác giả và nguồn tài liệu thì luận án không được duyệt bảo vệ”.
Hành vi sao chép của ông Hoàng Xuân Quế đã được quy định là hành vi vi phạm tại khoản 7 Điều 41 Quy chế Đào tạo sau đại học ban hành kèm theo Quyết định số 18/2000/QĐ-BGDĐT ngày 08/6/2000 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT: “7.Sao chép luận văn, luận án và công trình khoa học của người khác”.
Việc Bộ trưởng Bộ GD&ĐT ra Quyết định thu hồi bằng tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế là theo quy định tại điển a khoản 3 Điều 12 Quy định Quản lý văn bằng, chứng chỉ giáo dục phổ thông, giáo dục trung học chuyên nghiệp, giáo dục đại học và giáo dục sau đại học ban hành kèm theo Quyết định số 52/2002/QĐ-BGDĐT ngày 26/12/2002 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT:
“Văn bằng, chứng chỉ bị thu hồi trong các trường hợp sau đây: a. Người được cấp văn bằng chứng chỉ vi phạm các quy định về tuyển sinh, giáo dục, đào tạo do Bộ GD&ĐT hoặc cơ quan có thẩm quyền ban hành”.
Sau khi có đầy đủ căn cứ để xác định ông Hoàng Xuân Quế đã có hành vi sao chép luận án tiến sĩ, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã ban hành Quyết định số 4674/QĐ-BGDĐT ngày 11/10/2013 thu hồi bằng tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế. Đây là công việc phải thực hiện theo quy định của pháp luật, đúng thẩm quyền, đúng chức năng quản lý nhà nước về giáo dục, hoàn toàn vì sự nghiệp giáo dục đào tạo chung của đất nước.
Bên cạnh đó, việc Bộ trưởng Bộ GD&ĐT thu hồi bằng tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế còn cảnh báo, nhằm ngăn chặn những hành vi gian lận, tiêu cực trong hoạt động giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo công bằng, khách quan và minh bạch trong đánh giá chất lượng giáo dục.
Hành vi sao chép luận án tiến sĩ của ông Hoàng Xuân Quế đã rõ ràng và có minh chứng đầy đủ. Tất cả những lý do phía nguyên đơn nêu ra về trình tụ, thủ tục trong quá trình xử lý vụ việc của Bộ GD&ĐT không thể làm sai khác đi bản chất vụ việc là ông Quế đã có hành vi vi phạm những quy định về đào tạo sau đại học.
Bộ GD&ĐT nhận thấy, bản án Hội đồng xét xử Tòa án Nhân dân TP Hà Nội đã tuyên ngày 14/12 đối với vụ kiện của ông Hoàng Xuân Quế là không đúng với các quy định pháp luật tại thời điểm xảy ra vi phạm; không đúng với bản chất của vụ việc, làm mất lòng tin của đội ngũ giáo viên chân chính và của xã hội vào sự công tâm, khách quan của các cơ quan pháp luật.
Bộ GD&ĐT sẽ kháng cáo bản án nêu trên theo quy định, để bảo về kỷ cương trong giáo dục, bảo vệ chủ trương của Đảng và Nhà nước về nâng cao chất lượng giáo dục và đạo đức Nhà giáo.