Bảo quản mô buồng trứng bằng phương pháp đông lạnh

GD&TĐ - Nghiên cứu bảo quản mô buồng trứng bằng phương pháp đông lạnh giải quyết nhu cầu bảo tồn sinh sản trước các biến cố trong cuộc sống hoặc bẩm sinh.

Hình ảnh buồng trứng ở người.
Hình ảnh buồng trứng ở người.

Trữ mô buồng trứng để bảo tồn chức năng sinh sản

Sở KH&CN TPHCM vừa tổ chức Hội đồng nghiệm thu nhiệm vụ khoa học và công nghệ “Nghiên cứu bảo quản mô buồng trứng người Việt Nam bằng phương pháp đông lạnh”. Đây là nhiệm vụ do Bệnh viện Từ Dũ chủ trì thực hiện.

Bảo quản mô buồng trứng là cách tiếp cận sinh sản mới nhất và chỉ có một số phòng khám thực hiện. Thủ thuật này liên quan đến việc lấy đi một ít mô buồng trứng có chứa một số lượng đủ các trứng chưa trưởng thành và đem đi cấp đông.

Bệnh nhân sau khi hoàn thành phần điều trị ung thư, các mô này sẽ được đưa trở lại cơ thể, để cho các trứng có thể phát triển. Lợi ích của kỹ thuật này là các bệnh nhân ung thư có thể áp dụng trước khi hóa trị. Khi mô buồng trứng được trả về cơ thể, nó có tiềm năng khôi phục sản xuất hormone và chu kỳ tự nhiên.

Theo TS.BS Lê Thị Minh Châu (chủ nhiệm nhiệm vụ), trữ mô buồng trứng là một trong những giải pháp cần thiết để bảo tồn chức năng sinh sản cũng như nội tiết của phụ nữ, mà đôi khi giải pháp này là duy nhất trong một số trường hợp cụ thể như là đối với trẻ em gái bị ung thư, hoặc những bệnh nhân không đủ thời gian, không phù hợp trải qua quá trình thụ tinh ống nghiệm, trữ trứng hay trữ phôi.

Đông lạnh mô buồng trứng là phương pháp bảo tồn khả năng sinh sản được chỉ định đối với phụ nữ không thể kích thích buồng trứng, trữ phôi. Trữ mô buồng trứng còn thực hiện được trên thiếu niên và bé gái chưa dậy thì. Ưu điểm đặc biệt của trữ mô buồng trứng là không cần kích thích buồng trứng, không kéo dài thời gian điều trị bệnh lý.

Nhóm thực hiện nhiệm vụ đã tiến hành thu nhận mô buồng trứng, xử lý mẫu mô tươi, trữ lạnh mô buồng trứng theo quy trình công nghệ đông lạnh chậm và quy trình công nghệ thủy tinh hóa. Sau đó, rã đông các mẫu mô đã đông lạnh, ghép các mảnh mô lên chuột, thu nhận các mảnh mô sau ghép để đánh giá.

Kết quả cho thấy, dù cho trữ lạnh mô buồng trứng với kỹ thuật nào thì số lượng nang noãn, sự sống và chức năng tế bào đều giảm so với mô tươi và đặc biệt giảm ở mô có ghép nhiều hơn mô chỉ thực hiện trữ - rã mà không ghép.

Về mặt mô học, các nang noãn còn lại sau cấy ghép chủ yếu là nhóm nang nguyên thủy, đa số đều toàn vẹn, loại nang bị ảnh hưởng nhất là nang sơ cấp. Nguồn nang noãn nguyên thủy chính là nguồn dự trữ buồng trứng của bệnh nhân.

Như vậy, sau trữ - rã - ghép, dự trữ buồng trứng bệnh nhân có giảm nhưng vẫn còn để có thể duy trì hoạt động nội tiết và sinh sản. Cả hai kỹ thuật đông lạnh chậm và thủy tinh hóa đều cho kết quả khả quan sau trữ - rã - ghép. Tuy nhiên, kỹ thuật đông lạnh chậm có một số kết quả tốt hơn kỹ thuật thủy tinh hóa.

Giải bài toán khó trong công nghệ hỗ trợ sinh sản

Nhóm thực hiện đề tài này có sự phối hợp của các đơn vị đầu ngành bao gồm Bệnh viện Từ Dũ, Viện Tế bào gốc (Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia TPHCM) và Đại học Y Phạm Ngọc Thạch.

Theo nhóm tác giả, nghiên cứu này đã bắt kịp xu hướng phát triển sức khỏe sinh sản của y học thế giới. Tính ứng dụng thực tế của kết quả nhiệm vụ rất cao vì xuất phát từ nhu cầu thực tế là mong muốn bảo tồn sinh sản trước các biến cố trong cuộc sống hoặc do bẩm sinh, đồng thời là cơ sở để tiến hành ghép mô buồng trứng cho bước tiếp theo phục hồi sức khỏe nội tiết và có thể là khả năng sinh sản, từ đó góp phần nâng cao chất lượng sống của phụ nữ Việt Nam.

Bảo tồn khả năng sinh sản cho phụ nữ thường được chỉ định cho 3 nhóm chính gồm:

Người bị ung thư và tiến trình điều trị ung thư: Bản thân bệnh ung thư và quá trình điều trị ung thư như làm phẫu thuật, hóa trị, xạ trị, thuốc… đều có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Các loại ung thư thường gặp nhất ở nữ giới là ung thư vú, ung thư cổ tử cung, ung thư buồng trứng, bệnh bạch cầu, ung thư dòng lympho, hệ thần kinh trung ương.

Các bệnh lý lành tính có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản: Thường gặp nhất là bệnh lạc nội mạc tử cung và u lành buồng trứng phải phẫu thuật. Một số bệnh lý khác ít gặp hơn nhưng cũng có chỉ định bảo tồn khả năng sinh sản như bệnh tự miễn Lupus hệ thống, bệnh Behcet, hội chứng Churg-Strauss, viêm cầu thận kháng steroid, cấy tế bào gốc trong điều trị thiếu máu hồng cầu liềm, hội chứng Turner thể khảm, hội chứng đứt gãy nhiễm sắc thể X, hoặc trước khi phẫu thuật chuyển giới.

Trữ lạnh noãn dự phòng: Trữ lạnh noãn dự phòng hay trữ lạnh noãn xã hội (social egg freezing), còn gọi là trữ lạnh noãn không phải do nguyên nhân bệnh lý (non-medical egg freezing), thường được sử dụng để chỉ những phụ nữ khỏe mạnh dưới 38 tuổi muốn duy trì khả năng sinh sản để sử dụng noãn sau này.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ