1. Chuẩn hóa cơ cấu hệ thống
Việc chuẩn hóa, theo Bộ GD&ĐT, cần được thực hiện từ tên gọi thống nhất của các cơ sở giáo dục đại học đến trình độ đào tạo phù hợp với khung năng lực tham chiếu Asean.
Những nhiệm vụ Bộ GD&ĐT đang làm và sẽ tiếp tục làm trong thời gian tới cụ thể như sau:
Bộ GD&ĐT đã hoàn thiện việc rà soát thực trạng dịch tên gọi trên cơ sở giáo dục đại học sang tiếng nước ngoài và có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Thứ nhất, chuẩn hóa tên gọi các cơ sở giáo dục đại học bằng tiếng nước ngoài.
Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần thống nhất lại tên gọi chuẩn của các cơ sở đào tạo trong cả nước để sao cho người nước ngoài khi nghe tên của cơ sở giáo dục đại học có thể hình dung được các thuộc tính quen thuộc đang tồn tại trên thế giới.
Thứ 2, sắp xếp lại hệ thống giáo dục đào tạo và dạy nghề. Trước mắt, thống nhất trình độ trung cấp chuyên nghiệp và trung cấp nghề thành trung cấp nghề nghiệp và trình độ đào tạo này đã được đưa vào dự thảo Luật Giáo dục nghề nghiệp trình Quốc hội thông qua trong thời gian sắp tới.
Thứ 3, soạn thảo Nghị định phân tầng, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học. Thực hiện Luật Giáo dục đại học, các cơ sở giáo dục đại học nước ta cần phân thành 3 nhóm: Trường ĐH theo định hướng nghiên cứu, trường ĐH theo định hướng ứng dụng và các trường cao đẳng thực hành nghề nghiệp) và thực hiện xếp hạng trong từng nhóm.
Bộ GD&ĐT đang soạn thảo Nghị định về tiêu chí phân tầng và khung xếp hạng trong từng nhóm để trình Chính phủ ban hành.
2. Kiểm định chất lượng đào tạo
Kiểm định chất lượng đào tạo bao gồm kiểm định chất lượng chương trình và kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục đại học. Bộ GD&ĐT đã thành lập 2 Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục trực thuộc 2 ĐHQG.
Để kiểm định chất lượng của tất cả các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước, trong thời gian tới, Bộ GD&ĐT cho biết cần thành lập thêm một số trung tâm kiểm định chất lượng giáo dục phân bố ở các vùng miền trong cả nước.
Lễ trao bằng tốt nghiệp Cử nhân Quản trị kinh doanh tại Trường ĐH Kinh tế quốc dân |
3. Đổi mới chương trình đào tạo, phát triển chương trình chất lượng cao
Bộ GD&ĐT nhận định: Luật Giáo dục đại học đã tạo hành lang pháp lý rất vững chắc để các trường đổi mới chương trình, nâng cao chất lượng đào tạo.
Trước hết, các trường được tự chủ trong xây dựng chương trình đào tạo, chủ động lựa trong lựa chọn hệ thống giáo trình phục vụ giảng dạy.
Bộ GD&ĐT đã ban hành Thông tư quy định đào tạo chất lượng cao. Theo đó, các trường không còn giới hạn trần học phí, điều mà các trường cho là giới hạn quyền tự chủ bấy lâu nay dẫn đến việc tăng quy mô để đảm bảo về tài chính.
Tiếp theo, các trường có thể xây dựng chương trình chất lượng cao với mức thu học phí tính đúng, tính đủ chi phí đào tạo với chất lượng tương ứng.
Với quy định đào tạo chất lượng cao, cùng với chính sách tín dụng cho sinh viên và việc giao quyền tự chủ tuyển sinh, các trường đã có uy tín, thực sự đào tạo có chất lượng, có sức hút thí sinh có điều kiện để phát triển các chương trình đào tạo chất lượng cao, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập, tăng cường nghiên cứu khoa học, tăng cường trao đổi giáo viên, sinh viên với các trường ĐH nước ngoài…
Với kinh nghiệm có được từ các chương trình chất lượng cao, các trường sẽ từng bước nâng cao chất lượng các chương trình đào tạo đại trà, tiếp cận dần chương trình đào tạo chuẩn mực khu vực và quốc tế.
4. Đổi mới công tác tuyển sinh
Thực hiện Luật Giáo dục đại học và Nghị quyết 29 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, Bộ GD&ĐT đã yêu cầu các trường thực hiện quyền tự chủ tuyển sinh.
Tuy nhiên, năm 2014 là năm đầu thực hiện nên mới chỉ có 62 trường đăng ký triển khai. Các trường còn lại phải gửi Đề án tự chủ tuyển sinh cho Bộ GD&ĐT trước ngày 30/9/2014 để thực hiện tự chủ tuyển sinh trong năm tới.
Dự kiến từ năm 2015 trở đi, Bộ GD&ĐT sẽ tập trung tổ chức kỳ thi quốc gia nhằm 2 mục đích: Xét tốt nghiệp THPT và tuyển sinh ĐH, CĐ.
Dự thảo đề án kỳ thi quốc gia đã được đưa ra lấy ý kiến dư luận rộng rãi. Trên cơ sở thống nhất ý kiến về kỳ thi quốc gia, Bộ GD&ĐT yêu cầu các trường ĐH, CĐ cần xem việc tham gia tổ chức kỳ thi như là nhiệm vụ của mình để phối hợp với các Sở GD&ĐT thực hiện kỳ thi nghiêm túc.
Đồng thời, đề nghị các trường cũng cân nhắc, lựa chọn phương thức tuyển sinh vào các ngành nghề khác nhau của trường mình một cách phù hợp nhất để đảm bảo mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo.
5. Củng cố hệ thống quản trị đại học
Hệ thống quản trị đại học cơ bản đã được xác định trong Luật GD ĐH. Hiện nay, Bộ GD&ĐT đang hoàn thiện phiên bản cuối cùng Điều lệ trường ĐH trên nền tảng của Luật GD ĐH và các quy định hiện hành.
Luật cũng như các văn bản dưới Luật quy định rất chặt chẽ hệ thống quản trị đại học của nước ta nhưng các trường chưa thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện chưa nghiêm dẫn đến hiệu quả của công tác quản trị ĐH chưa đáp ứng được yêu cầu.
Luật GD ĐH quy định việc thành lập Hội đồng trường đối với các cơ sở GD ĐH công lập và đảm bảo quyền lực của Hội đồng này trong mọi hoạt động của nhà trường.
Trong thực tế thời gian qua, đa số các cơ sở GD ĐH chưa thành lập Hội đồng trường, một số trường thành lập Hội đồng trường nhưng hoạt động chiếu lệ, không thực chất.
Điều này một mặt thể hiện sự thiếu nghiêm minh trong chấp hành luật pháp, mặt khác, không đảm bảo được cơ cấu tổ chức hoàn chỉnh để thực hiện quyền tự chủ đi liền với cơ chế giám sát và trách nhiệm giải trình của nhà trường.
Trong thực tế vận hành những năm gần đây, một số trường được thí điểm giao quyền tự chủ cao nhưng thiếu sự giám sát của Hội đồng trường đã xảy ra những vi phạm quy chế đào tạo, vi phạm dân chủ cơ sở dẫn đến mất đoàn kết, khiếu kiện kéo dài.
Đối với những cơ sở GD ĐH ngoài công lập thì các quy định hiện hành phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay tạo sự hài hòa giữa lợi ích của nhà đầu tư và mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Trên thực tế hiện nay, nước ta chưa có những “mạnh thường quân” hiến tặng tài sản để xây dựng các có sở giáo dục đào tạo phi lợi nhuận.
Cơ sở giáo dục phi lợi nhuận theo đúng nghĩa là cơ sở giáo dục của xã hội tự sở hữu chính mình, không ai là chủ sở hữu. Vì vậy tất cả lợi nhuận có được sẽ được tái đầu tư để phát triển nhà trường.
Mô hình như vậy hiện nay khó hiện thực ở nước ta. Vì vậy Luật GD ĐH đã xác định trường đại học tư thục không vì lợi nhuận khi không chia lợi nhuận hay chia nhưng không quá mức lãi của trái phiếu chính phủ. Nhà đầu tư vẫn là chủ sở hữu của nhà trường. Khung pháp lý hiện nay đủ để các trường ngoài công lập hoạt động.
Những khó khăn của các trường ngoài công lập không phải lỗi của cơ chế chính sách mà thuộc về điều kiện cụ thể của từng trường.
Các trường cần nhìn lại mình, học tập kinh nghiệm của những trường cùng loại hình nhưng phát triển thành công.
Tuy nhiên, những năm gần đây, hệ thống các trường ngoài công lập xuất hiện những khó khăn: Một số trường tuyển sinh với tỷ lệ rất thấp so với chỉ tiêu;
Một số trường có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, xung đột giữa hội đồng quản trị và hiệu trường; một số trường xung đột giữa hội đồng quản trị và cổ đông…
Bên cạnh những trường khó khăn, có những trường ngoài công lập phát triển rất thành công, thu hút mạnh mẽ thí sinh, chất lượng cạnh tranh với các trường công lập như trường ĐH Công nghệ TP HCM, trường ĐH Duy Tân, trường ĐH Thăng Long.
Việc bồi dưỡng kinh nghiệm quản trị đại học cũng cần được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả. Quy hoạch bồi dưỡng cán bộ trẻ, năng động và cơ cấu dần vào các vị trí quản lý để thử thách.
Các trường cần xây dựng kế hoạch gửi cán bộ quản lý có năng lực đi học tập công tác quản lý các trường ĐH nước ngoài. Nên phân biệt rạch ròi mục đích của thực tập chuyên môn và học tập quản lý.
Lâu nay các trường chú trọng nhiều đến việc gửi cán bộ đi thực tập chuyên môn nhưng chưa chú trọng việc gửi cán bộ đi học tập quản lý ĐH, một lĩnh vực không kém phần quan trọng.
6. Đổi mới cơ chế tài chính, đầu tư tập trung, đồng bộ và hiệu quả
Khẩn trương trình các cấp có thẩm quyền ban hành quy định tự chủ tài chính, tự chủ thu học phí của 4 trường ĐH thí điểm.
Nhân rộng mô hình tự chủ tài chính của các trường ĐH công lập để có thêm nguồn lực đầu tư nâng cao chất lượng đào tạo. Khuyến khích các trường công lập có đủ điều kiện đăng ký thực hiện tự chủ tài chính, tự chủ thu học phí.
Các cơ sở GD ĐH chấm dứt tình trạng xây dựng dự án đầu tư mà không nhằm mục tiêu rõ ràng, không nhắm đến hướng lâu dài. Dự án đầu tư cần nằm trong kế hoạch phát triển tổng thể của nhà trường trong trung hạn và dài hạn.
Đổi mới công tác tài chính để tạo động lực cho các trường cạnh tranh lành mạnh nâng cao hiệu quả đầu tư toàn hệ thống.
Đầu tư trang thiết bị phải đi kèm với việc đào tạo cán bộ sử dụng, khai thác, bảo dưỡng. Chấm dứt tình trạng mua sắm trang thiết bị rồi mà không có người sử dụng hoặc sử dụng kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực đầu tư của Nhà nước.
7. Xây dựng mục tiêu chiến lược phát triển nhà trường
Mặc dù mục tiêu chiến lược phát triển các cơ sở GD ĐH đã được Bộ GD&ĐT yêu cầu công bố từ lâu nhưng một số trường cho đến nay vẫn chưa có bản kế hoạch hoàn chỉnh hoặc có nhưng chưa thể hiện được mục tiêu dài hạn cũng như kế hoạch phát triển trong từng giai đoạn.
Trên cơ sở Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT lần này, các trường cần có bản kế hoạch phát triển cụ thể.
Trong bản kế hoạch cần nêu rõ mục tiêu đào tạo, chất lượng đào tạo qua từng giai đoạn thể hiện rõ qua chuẩn đầu ra, quy mô sinh viên đi kèm với kế hoạch phát triển đội ngũ và CSVC tương ứng.