Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn dự và chỉ đạo hội nghị. Cùng dự có các Thứ trưởng: Nguyễn Văn Phúc, Lê Tấn Dũng, Lê Quân; Phó Bí thư Đảng ủy Bộ - Nguyễn Viết Lộc; đại diện lãnh đạo các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ và các đơn vị cơ quan Bộ; lãnh đạo các Sở GD&ĐT…
Nhiều kết quả nổi bật trong nhiệm kỳ đặc biệt
Báo cáo tổng kết công tác năm 2025, nhiệm kỳ 2021 - 2025, định hướng công tác nhiệm kỳ 2026 - 2030 và triển khai nhiệm vụ trọng tâm năm 2026 của ngành Giáo dục đưa nhận định: Năm 2025 có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngành Giáo dục, là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, cũng là năm tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Nhiệm kỳ 2021 - 2025 diễn ra trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường. Trong nước, đầu nhiệm kỳ, tình hình kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn do tác động của đại dịch Covid-19. Hai năm cuối nhiệm kỳ đất nước có những thay đổi mang tính lịch sử, nhất là cuộc cách mạng về sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn bộ máy ở Trung ương, thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp và sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã.
Cùng với đó, khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ với nhiều bước đột phá lớn, khẳng định vai trò động lực chủ chốt thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững, nhiều xu thế mới, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI), chíp bán dẫn, chuyển đối số, chuyển đổi xanh...
Điều này tác động mạnh mẽ tới giáo dục, khẳng định vai trò quyết định của giáo dục trong phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để phát triển kinh tế - xã hội đất nước và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong giai đoạn tới.
Trong bối cảnh đó, công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ GD&ĐT đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đóng góp chung vào kết quả phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong nhiệm kỳ, Bộ GD&ĐT đã tập trung tổng kết Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT và trình Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 91-KL/TW tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW; tham mưu Đảng ủy Chính phủ trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển GD-ĐT.
Các văn bản trên là những chủ trương lớn, mang tính chiến lược của Đảng về phát triển GD-ĐT, qua đó định hình vị trí, vai trò, tầm vóc của nền giáo dục trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.
Nhiệm kỳ 2021 - 2025, đặc biệt là trong năm 2025, ngành Giáo dục tiếp tục nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, sự chỉ đạo thường xuyên, sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp hiệu quả của các ban, bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành phố; sự ủng hộ của các tầng lớp Nhân dân; đặc biệt là sự tâm huyết, trách nhiệm của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các cấp trong triển khai các nhiệm vụ của ngành.
Trên cơ sở kết quả công tác chỉ đạo, điều hành, Bộ GD&ĐT đánh giá kết quả công tác năm 2025 và nhiệm kỳ 2021 - 2025 với các kết quả nổi bật như sau:
Thứ nhất, về công tác hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực GD-ĐT: Năm 2025 Bộ GD&ĐT phải trình ban hành và ban hành theo thẩm quyền tổng số 99 văn bản. Kết quả trình các cấp có thẩm quyền ban hành 40 văn bản và ban hành theo thẩm quyền 26 thông tư, 11 quyết định cá biệt. Trong đó nổi bật là:
Tham mưu Đảng ủy Chính phủ trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển GD-ĐT; đề ra những chủ trương, quyết sách mới, mạnh mẽ hơn để nhanh chóng khai thông các điểm nghẽn, tạo đột phá phát triển, hiện đại hóa, chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Nhà giáo. Đây là luật chuyên ngành đầu tiên quy định đầy đủ về vị trí pháp lý, quyền, nghĩa vụ và các chính sách dành cho đội ngũ nhà giáo.
Tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua 3 luật theo quy trình rút gọn, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi). Qua đó, đã tháo gỡ các nút thắt, những vướng mắc từ thực tiễn đặt ra, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hiện đại, tiệm cận chuẩn mực và thông lệ quốc tế, phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước để tiếp tục đổi mới và tạo đột phá trong phát triển GD-ĐT
Tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để đột phá phát triển GD-ĐT - Nghị quyết đầu tiên về cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội cho lĩnh vực giáo dục được Quốc hội thông qua. Tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035.
Trong quá trình Bộ GD&ĐT chủ trì xây dựng các văn bản, các địa phương, các cơ sở giáo dục đại học đã tích cực tham gia trong việc góp ý hoàn thiện văn bản; khảo sát tình hình thực tế và tổ chức các tọa đàm, hội thảo khoa học. Đến nay, các sở GD&ĐT cũng đã tham mưu tỉnh ủy, thành ủy và UBND cấp tỉnh ban hành các Chương trình, Kế hoạch hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 71-NQ/TW.
Thứ hai, thực hiện chủ trương và chỉ đạo cấp trên về rà soát, sắp xếp bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả và thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, Bộ GD&ĐT đã tham mưu trình Chính phủ ban hành Nghị định số 37 ngày 26/2/2025, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ GD&ĐT.
Sau khi kết thúc hoạt động của Thanh tra Bộ, đến nay, Bộ GD&ĐT có 14 tổ chức hành chính và 3 đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ chức năng quản lý nhà nước thuộc Bộ, giảm 6 tổ chức hành chính so với năm 2024, đạt tỷ lệ 30%. Triển khai rà soát, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Văn phòng và các cục thuộc Bộ GD&ĐT, đến nay còn 7 đơn vị, giảm 4 đơn vị so với năm 2021, đạt tỷ lệ 37,5%.
Thực hiện rà soát, sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ, sau khi tiếp nhận 16 đơn vị sự nghiệp công lập từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và 2 đại học quốc gia, Bộ GD&ĐT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1723/QĐ-TTg về danh sách các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ GD&ĐT.
Theo đó, số lượng đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ là 65 đơn vị. Số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ hưởng lương từ ngân sách nhà nước được Bộ Nội vụ giao trong giai đoạn 2023 - 2026 là 21.096 người (giảm 12,3% so với năm 2021).
Các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ đã xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án cơ cấu, sắp xếp các đơn vị thuộc, trực thuộc theo hướng tinh gọn, hiệu quả…
Thực hiện chính quyền địa phương 2 cấp, Bộ GD&ĐT đã kịp thời tham mưu Chính phủ ban hành 2 Nghị định và ban hành theo thẩm quyền 6 Thông tư các quy định về phân định thẩm quyền của chính quyền địa phương hai cấp và quy định về phân quyền, phân cấp trong lĩnh vực giáo dục.
Bộ GD&ĐT đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp, phân quyền theo mô hình mới; tổ chức tọa đàm, tập huấn cho đội ngũ; thiết lập đường dây nóng và phân công các đơn vị chuyên môn thường trực giải đáp vướng mắc, hỗ trợ các địa phương trong quá trình thực hiện. Tháng 12/2025, Bộ GD&ĐT đã ban hành Công văn gửi UBND các tỉnh, thành phố trong đó có yêu cầu hoàn thành dứt điểm việc sắp xếp cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông và giáo dục thường xuyên trước ngày 31/12/2025.
Ở các địa phương, UBND các tỉnh, thành phố đã tích cực tiếp nhận, tổ chức triển khai các nhiệm vụ được phân quyền, nâng cao tính linh hoạt và hiệu quả trong quản lý giáo dục theo đặc thù từng địa phương, bảo đảm các hoạt động GD-ĐT diễn ra thông suốt, đồng bộ giữa các cấp chính quyền và cơ quan, đơn vị chuyên môn trong toàn hệ thống.
Thứ ba, Bộ GD&ĐT đã ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về công tác phát triển giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; điều chỉnh Chương trình giáo dục phổ thông 2018 phù hợp với điều chỉnh địa giới hành chính và phù hợp với chính quyền địa phương 2 cấp, tăng thời lượng các môn khoa học, công nghệ, tin học, nghệ thuật.
Chất lượng GD-ĐT các cấp học mầm non, phổ thông tiếp tục được nâng cao; năm 2025, Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được triển khai đồng bộ với đầy đủ các môn học, hoạt động giáo dục từ lớp 1 đến lớp 12 trên phạm vi cả nước, hoàn thành chu trình đổi mới chương trình, sách giáo khoa.
Các sở GD&ĐT đã tiếp tục quan tâm công tác phổ cập giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học, giáo dục THCS và xoá mù chữ; nhiều tỉnh, thành phố đã được công nhận đạt phổ cập giáo dục tiểu học, THCS và xóa mù chữ ở mức cao hơn; chỉ đạo các cơ sở giáo dục xây dựng và triển khai kế hoạch giáo dục nhà trường theo quy định.
Việc tổ chức thực hiện Chương trình giáo dục mầm non, phổ thông nhìn chung bảo đảm nội dung, thời lượng chương trình, đồng thời có điều chỉnh linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa bàn, đặc biệt tại vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Các cơ sở đào tạo giáo viên đã chủ động rà soát, điều chỉnh chương trình đào tạo đáp ứng đổi mới chương trình giáo dục mầm non, phổ thông và tham gia tích cực vào công tác bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo.
Bộ GD&ĐT đã kịp thời ban hành Quyết định về bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông sử dụng thống nhất toàn quốc; theo đó, bộ sách giáo khoa “Kết nối tri thức với cuộc sống” của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam đã được lựa chọn là bộ sách giáo khoa giáo dục phổ thông sử dụng thống nhất toàn quốc từ năm học 2026 – 2027. Trong thời gian tới, Bộ GD&ĐT sẽ phối hợp chặt chẽ với các địa phương, cơ sở giáo dục, đội ngũ giáo viên và toàn xã hội để triển khai hiệu quả bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc.
Thứ tư, chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được khẳng định, các đoàn học sinh Việt Nam tham dự các cuộc thi khoa học, kỹ thuật học sinh trung học năm học 2024 - 2025 cấp quốc gia, quốc tế và các Kỳ thi Olympic quốc tế và khu vực tiếp tục đạt kết quả cao.
Kết quả trong giai đoạn 2021 - 2025, các đội tuyển Việt Nam tham gia dự thi Olympic khu vực và quốc tế đã đạt thành tích cao với tổng số 194/194 học sinh dự thi đều đoạt giải. Một số thành tích nổi bật như: Đội tuyển Olympic Hóa học quốc tế giai đoạn 2021 - 2025 có 20 lượt thí sinh đã xuất sắc giành 20/20 huy chương, trong đó có 17 Huy chương Vàng, 3 Huy chương Bạc, luôn duy trì top 10 nước có thành tích tốt nhất tham dự Olympic hóa học quốc tế. Nhiều năm liền, Việt Nam thuộc nhóm 10 quốc gia có kết quả tốt nhất tại các kỳ thi Olympic Toán học, Vật lí, Hóa học, Sinh học và Tin học trên toàn thế giới.
Thứ năm, Bộ GD&ĐT đã tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách và ban hành văn bản hướng dẫn về phát triển giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành một số Đề án, Chương trình nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhìn chung, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp đã có chuyển biến mạnh mẽ cả về chất lượng, hiệu quả và mức độ tiếp cận của người dân. Đổi mới giáo dục đại học gắn với tăng cường tự chủ đã tạo ra động lực mới, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực; nghiên cứu khoa học, nhất là công bố khoa học quốc tế tăng mạnh; một số cơ sở giáo dục đại học được xếp hạng trong nhóm đại học tốt nhất khu vực châu Á và thế giới.
Quy mô và chất lượng giáo dục đại học ngày càng tăng, cơ cấu đào tạo có sự dịch chuyển tích cực; trong đó, các ngành STEM có xu hướng tăng đáng kể, cao hơn mức tăng chung của tuyển sinh cả nước, đặc biệt là các lĩnh vực Toán và thống kê, Máy tính và công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật, Kỹ thuật ở các trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.
Năm 2025, có 6 đại diện lọt vào bảng xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học hàng đầu thế giới (do Tổ chức QS công bố), gồm: Đại học Duy Tân, Đại học Tôn Đức Thắng; Đại học Quốc gia Hà Nội; Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh; Đại học Bách khoa Hà Nội và Đại học Huế.
Các cơ sở giáo dục đại học đã tăng cường tự chủ trong công tác tuyển sinh và đào tạo; một số cơ sở giáo dục đại học đã và đang tiến hành mở các chuyên ngành chuyên sâu về chip bán dẫn, vi mạch …
Thứ sáu, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong nhà trường. Đến năm học 2024 - 2025, 100% cơ sở giáo dục đã triển khai dạy tiếng Anh bắt buộc ở lớp 3, lớp 4 và lớp 5.
Năm 2025, Bộ GD&ĐT đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án “Đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học giai đoạn 2025 - 2035, tầm nhìn đến năm 2045”; Đề án tăng cường dạy học ngoại ngữ, tiếng nước láng giềng giai đoạn 2026 - 2035 định hướng đến 2045 để từng bước đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học và tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ khác trong thời gian tới.
Thứ bảy, chuyển đổi số toàn diện, phổ cập và ứng dụng mạnh mẽ công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong giáo dục và đào. Công tác xây dựng hạ tầng dữ liệu và kết nối liên thông đạt kết quả tích cực tạo nền tảng cho quản trị giáo dục hiện đại.
Bộ GD&ĐT đã xây dựng cơ sở dữ liệu học bạ số với hơn 10,3 triệu hồ sơ và văn bằng số với hơn 1,2 triệu dữ liệu, đồng thời đã thực hiện kết nối, tích hợp lên ứng dụng VNeID.
Cơ sở dữ liệu chuyên ngành từ mầm non đến đại học được chuẩn hóa, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; đã xác thực và định danh điện tử cho khoảng 24,3 triệu hồ sơ giáo viên và học sinh, giúp cắt giảm nhiều thủ tục hành chính và hỗ trợ hoạch định chính sách theo thời gian thực.
Trong lĩnh vực giáo dục AI, Bộ GD&ĐT đã ban hành Khung năng lực số và quy định nội dung thí điểm giáo dục AI cho học sinh phổ thông ngay từ lớp 1. Nhiều mô hình tiên tiến như lớp học Metaverse, giáo viên ảo và trợ giảng AI (Khanmigo) đã được triển khai thí điểm nhằm cá nhân hóa học tập, tăng hứng thú và phát huy tính chủ động của người học. Toàn bộ quá trình triển khai được quán triệt theo nguyên tắc bảo vệ dữ liệu cá nhân, tuân thủ đạo đức AI và bảo đảm tính nhân văn, lấy sự phát triển toàn diện của con người làm trung tâm trong kỷ nguyên số.
Thứ tám, các điều kiện bảo đảm chất lượng được tăng cường. Trong đó, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục tiếp tục phát triển về số lượng và nâng cao về chất lượng. Bộ GD&ĐT đã phối hợp với Bộ Nội vụ rà soát, báo cáo đề xuất Trung ương bổ sung biên chế giáo viên giai đoạn 2021 - 2025. Các địa phương đã tích tuyển dụng biên chế được giao, theo đó đội ngũ giáo viên đã tiếp tục khắc phục tình trạng thiếu số lượng và bất cập về cơ cấu.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhà giáo tiếp tục được quan tâm; tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn trình độ đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 cấp học mầm non, tiểu học, THCS được nâng cao nhanh chóng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông ngày càng được cải thiện, đáp ứng tốt hơn việc triển khai thực hiện Chương trình giáo dục mầm non và chương trình giáo dục phổ thông. Bộ GD&ĐT đã tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035.
Năm 2025, Bộ GD&ĐT đã tham mưu Chính phủ trình Bộ Chính trị thông qua chủ trương đầu tư xây dựng các trường phổ thông nội trú liên cấp tiểu học và THCS tại 248 xã biên giới đất liền, đến nay đã khởi công xây dựng 100 trường, hoàn thành trước ngày 30/8/2026 và phấn đấu hoàn thành mục tiêu 248 trường trong 2 - 3 năm tới. Hiện nay, Bộ đang quyết liệt chỉ đạo các chủ đầu tư, nhà thầu đẩy nhanh tiến độ thi công, bảo đảm chất lượng, kịp thời hoàn thành, đưa 100 trường vào sử dụng từ năm học 2026 - 2027.
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác chỉ đạo, điều hành, triển khai các nhiệm vụ của Bộ trong năm 2025 và nhiệm kỳ 2025 vẫn còn một số tồn tại, hạn chế.
Theo đó, vẫn còn một số văn bản quy phạm pháp luật, đề án hoàn thành chậm thời hạn, nguyên nhân chủ yếu là do văn bản có nội dung phức tạp, đối tượng chịu tác động nhiều, cần có thời gian khảo sát, nghiên cứu và tổ chức lấy ý kiến hoặc cần sự thống nhất với các các bộ, ngành, cơ quan liên quan. Tỷ lệ giải ngân chung của Bộ còn thấp.
Việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 vẫn còn một số khó khăn, bất cập. Một số cơ sở giáo dục vẫn còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường; chưa thực sự chủ động được trong tổ chức dạy học các môn tích hợp, hoạt động trải nghiệm hướng nghiệp và nội dung giáo dục địa phương. Việc kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh tại một số nơi vẫn còn hình thức, chưa sát thực tế.
Quy mô giáo dục nghề nghiệp còn nhỏ; cơ cấu ngành nghề, trình độ đào tạo chưa phù hợp; chất lượng, hiệu quả đào tạo chưa cao, nhất là đào tạo nguồn nhân lực tay nghề cao, ngành nghề mới, kỹ năng tiên tiến; hình thức, phương thức đào tạo chậm đổi mới, chưa linh hoạt, đa dạng để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động; công tác đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho người lao động chưa được chú trọng.
Quy mô đào tạo trình độ đại học tăng nhưng tập trung ở các ngành, lĩnh vực có khả năng xã hội hóa cao như khối ngành kinh tế, tài chính hoặc khối ngành có nhu cầu nguồn nhân lực lớn, trong khi các nhóm ngành khoa học cơ bản, khoa học xã hội không có sức hút đối với người học.
Định hướng công tác nhiệm kỳ 2026 - 2030
Trong nhiệm kỳ 2026 - 2030, Bộ GD&ĐT tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, Nghị quyết số 71-NQ/TW về đột phá phát triển GD-ĐT, Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; cụ thể hóa các luật: Luật Nhà giáo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục, Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi), Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) thành các cơ chế, chính sách cụ thể để triển khai trong toàn ngành.
Đồng thời, Bộ GD&ĐT sẽ phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức rà soát, triển khai thực hiện có hiệu quả các đề án sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục, đào tạo trong cả nước bảo đảm tinh gọn, hiệu quả; triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035 và các chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước để tạo đột phá trong đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng toàn diện các hoạt động GD-ĐT.
Nhằm thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về GD-ĐT, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra, Bộ GD&ĐT xác định các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm 2026 của ngành như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước về giáo dục; đổi mới quản trị nhà trường.
Theo đó, chú trọng đổi mới, tạo đột phá trong công tác xây dựng pháp luật về GD-ĐT; thể chế hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được giao tại Nghị quyết số 71-NQ/TW; Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị và các văn bản khác của Đảng về GD-ĐT. Tập trung nguồn lực để triển khai thi hành Luật Nhà giáo; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục, Luật Giáo dục đại học (sửa đổi), Luật Giáo dục nghề nghiệp (sửa đổi) và các quy định về quản lý giáo dục theo mô hình chính quyền địa phương hai cấp.
Thứ hai, sắp xếp, tổ chức lại và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập. Đổi mới công tác quản trị nhà trường theo hướng tăng quyền tự chủ, nâng cao trách nhiệm giải trình, phát huy dân chủ gắn với vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong các cơ sở GD-ĐT; đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản trị trường học.
Thứ ba, triển khai thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em từ 3 đến 5 tuổi; thực hiện thí điểm Chương trình giáo dục mầm non mới. Tổ chức thực hiện hiệu quả Chương trình giáo dục phổ thông bảo đảm tính khoa học, sư phạm; khai thác tối đa hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất, thiết bị dạy học giúp học sinh đạt được yêu cầu cần đạt theo quy định của Chương trình; tổ chức thực hiện 1 bộ sách giáo khoa thống nhất trong cả nước theo quyết định đã được phê duyệt.
Thứ tư, triển khai xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Nhà giáo tạo cơ sở pháp lý vững chắc xây dựng quy hoạch, chế độ chính sách đặc thù bảo đảm bền vững, lâu dài để thu hút và giữ chân nhà giáo yên tâm công tác trong ngành Giáo dục. Tiếp tục phối hợp với Bộ Nội vụ rà soát số lượng chỉ tiêu biên chế và số lượng giáo viên hiện có của các địa phương để báo cáo Trung ương bổ sung biên chế ngành giáo dục giai đoạn 2026 - 2030. Tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc các địa phương trong việc tổ chức tuyển dụng hết số biên chế được cấp có thẩm quyền giao và khắc phục tình trạng thiếu giáo viên các cấp học
Thứ năm, triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035 để tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên, phát triển mạng lưới trường, lớp và bảo đảm cơ sở vật chất, thiết bị dạy học tối thiểu theo quy định. Tiếp tục kiên cố hóa trường lớp học, xóa phòng học tạm; phát triển trường, lớp học ở các khu vực có dân số tăng nhanh, khu vực đông dân cư; xây dựng trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia. Đầu tư hiện đại hóa cơ sở vật chất và tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.
Thứ sáu, triển khai thực hiện hiệu quả Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học và sư phạm thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050; Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Bảo đảm quyền tự chủ đầy đủ, thống nhất cho các cơ sở giáo dục đại học, cơ sở giáo dục nghề nghiệp trong hoạt động chuyên môn, quản trị nội bộ và hợp tác quốc tế, gắn với thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai, minh bạch thông tin theo quy định.
Nâng cao chất lượng giáo dục đại học; đánh giá kết quả tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2025 và chuẩn bị tốt cho công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng năm 2026. Tổ chức thực hiện hiệu quả các đề án, dự án liên quan đến đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công nghệ cao, nhất là phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về vi mạch bán dẫn Việt Nam.
Thứ bảy, đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách hành chính trong lĩnh vực GD-ĐT. Khẩn trương hoàn thiện các cơ sở dữ liệu của ngành, bảo đảm kết nối, liên thông dữ liệu trong nội bộ ngành với các cơ sở dữ liệu quốc gia, đặc biệt cơ sở dữ liệu phục vụ cung cấp dịch vụ công trực tuyến.
Triển khai đồng bộ, hiệu quả học bạ số ở cấp phổ thông và văn bằng số đối với bằng tốt nghiệp THPT, văn bằng giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Tổ chức thực hiện Chiến lược ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong GD-ĐT; áp dụng Khung năng lực số và nâng cao năng lực số cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý và người học.