Dưới góc độ pháp lý, luật sư Nguyễn Hồng Thái, Công ty Luật Quốc tế Hồng Thái và Đồng Nghiệp cho biết, theo Bộ Luật Hình sự 1999 quy định về tội sử dụng trái phép chất ma túy nhưng kể từ Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 có hiệu lực, tội danh này được loại bỏ, người sử dụng ma tuý không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Căn cứ Điều 199 Bộ luật Hình sự 1999 quy định về tội sử dụng trái phép chất ma túy như sau:
“1. Người nào sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà còn tiếp tục sử dụng trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Tái phạm tội này thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm.”
Tuy nhiên, theo Bộ Luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ 01/01/2018 đã loại bỏ điều luật về tội sử dụng trái phép chất ma túy quy định tại Bộ Luật Hình sự 1999.
Luật sư Thái nhận định, điều này có nghĩa, hành vi sử dụng trái phép chất ma túy không còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa, nhưng có thể sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về phòng, chống tệ nạn xã hội. Căn cứ Khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định như sau:
“1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.”
Luật sư Thái cũng cho hay, nếu kết quả điều tra vụ việc xác định đối tượng cung cấp ma túy cho những đối tượng trên thì có thể bị truy cứu trách nhiêm hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249 Bộ Luật Hình sự 2015); mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251 Bộ luật hình sự 2015); tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 255 Bộ Luật hình sự 2015).