(GD&TĐ) - Sáng nay (27/8), tại TP.Đà Nẵng, Vụ Giáo dục đại học, Dự án Phát triển giáo viên THPT và TCCN (Bộ GD&ĐT) tổ chức tập huấn Xây dựng chuẩn đầu ra trình độ ĐH Sư phạm kỹ thuật đào tạo giáo viên trung cấp chuyên nghiệp (TCCN). Đến dự và phát biểu khai mạc có Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga, cùng hơn 100 báo cáo viên, giảng viên thuộc các trường ĐH đào tạo giáo viên TCCN.
Phát biểu khai mạc, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga nêu rõ: Hiện cả nước có 4 trường ĐHSP kỹ thuật, 1 trường CĐ và khoa sư phạm kỹ thuật trong các trường ĐH đào tạo GV cho giáo dục THPT và một phần cho giáo dục TCCN. Song ngành nghề đào tạo chủ yếu tập trung vào nhóm kỹ thuật, những nhóm ngành dịch vụ, kinh tế, tài chính không có cơ sở đào tạo GV TCCN. Theo đó, chất lượng GV TCCN chưa theo kịp được yêu cầu giáo dục nghề nghiệp. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ GV TCCN cả về năng lực chuyên môn cũng như năng lực sư phạm là cần thiết. Để đảm bảo chất lượng trong đào tạo, các năng lực này phải dựa trên những chuẩn đinh hướng đầu ra cụ thể: Chuẩn nghề nghiệp, chuẩn nghiệp vụ, chuẩn đào tạo, chuẩn đầu ra.
Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bùi Văn Ga phát biểu chỉ đạo buổi Tập huấn. |
Thứ trưởng Bùi Văn Ga nhấn mạnh: Mục đích xây dựng và công bố chuẩn đầu ra là công khai với xã hội về năng lực đào tạo và các điều kiện đảm bảo chất lượng của trường. Nhắm giúp cho người học, phụ huynh và các nhà tuyển dụng biết, giám sát. Thực hiện những cam kết của nhà trường với xã hội về chất lượng đào tạo, đổi mới công tác quản lý, phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá. Đồng thời, xác định rõ nghĩa vụ và nâng cao trách nhiệm của đội ngũ CBQL, GV trong các hoạt động dạy học, phục vụ giảng dạy và quản lý nhằm giúp người học vươn lên trong học tập và tự học để đạt chuẩn đầu ra. Bên cạnh đó, công khai để người học biết được các kiến thức sẽ được trang bị sau khi tốt nghiệp về trình độ chuyên môn, chuẩn năng lực nghề nghiệp, kỹ năng thực hành, khả năng nhận thức và giải quyết vấn đề, công việc. Qua đó, tạo cơ hội tăng cường hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, sử dụng nhân lực.
PGS.TS Lê Đức Ngọc, Chuyên gia Dự án Phát triển giáo viên THPT và TCCN cho biết thêm: Việc xây dựng và công bố chuẩn đầu ra còn giúp các cơ sở đào tạo tự rà soát và xác định lại mục tiêu đào tạo của chương trình giáo dục theo các chuẩn đầu ra. Và làm căn cứ đổi mới nội dung, kết cấu chương trình, phương pháp dạy học, thi kiểm tra đánh giá và chuẩn bị các điều kiện đảm bảo chất lượng khác. Tuy nhiên, những căn cứ này được thực hiện trên cơ sở khung chuẩn chung tối thiểu, để các trường xây dựng khung chuẩn cho từng chương trình đào tạo phù hợp với điều kiện của cơ sở mình.
Hiện nay, đội ngũ GV TCCN đã tăng về quy mô và chất lượng đào tạo. So với năm 2001, cả nước chỉ có khoảng 10.000 GV, trong đó có 34 GV có trình độ tiến sĩ, 549 GV trình độ thạc sỹ. Thì đến nay, số lượng GV TCCN tăng lên 14.658 người, với hơn 219 GV có trình độ tiến sĩ, 2.392 GV trình độ thạc sỹ; đó là chưa tính đến số lượng khoảng 10.000 giảng viên trong các trường ĐH, CĐ tham gia giảng dạy TCCN.
Tập huấn xây dựng chuẩn đầu ra trình độ ĐHSP kỹ thuật đào tạo GV TCCN |
Tại buổi Tập huấn, nhiều đại biểu cùng có chung quan điểm rằng, trong giai đoạn hiện nay, GV không còn chỉ đóng vai trò là người truyền đạt tri thức mà phải là người tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, gợi mở, cố vấn, trọng tài cho các hoạt động học tập, tìm tòi khám phá nhằm giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Vì vậy, bên cạnh đòi hỏi GV phải có năng lực đối mới phương pháp dạy học; thì cần có những yêu cầu, điều kiện để đào tạo ra được người GV có đủ phẩm chất đạo đức, kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, chuyên tâm với nghề nghiệp. Nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học và giáo dục theo chương trình đào tạo trình độ TCCN.
Theo đó, các thành phần của khung chuẩn đầu ra trình độ ĐHSP kỹ thuật đào tạo GV TCCN cũng được làm rõ. Trong đó, tập trung 5 nôi dung cơ bản: Kiến thức, kỹ năng chuyên môn (kiến thức cơ bản, kiến thức kỹ năng cơ sở ngành, kiến thức kỹ năng chuyên ngành); Kiến thức kỹ năng sư phạm (kiến thức kỹ năng dạy học, kiến thức kỹ năng giáo dục); Kỹ năng mềm (kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng hợp tác); Thái độ (phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm công dân); Khả năng (khả năng đảm nhận công việc, khả năng phát triển).
Đại Thắng