Những thành tựu đạt được sau 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới là vô cùng to lớn, đất nước đã có được tiềm năng, tiềm lực, uy thế và uy tín để tiếp tục bứt phá và vươn mình trong giai đoạn tiếp theo.
Sự nghiệp đổi mới cần được phát huy và hoàn thiện trong thời kỳ mới mang tính thời đại. Thế giới chuyển mình mạnh mẽ yêu cầu đất nước phải có quốc sách phù hợp với giai đoạn mới để thực hiện thắng lợi 2 mục tiêu mà Đại hội Đảng XIII đã đề ra: “Đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045 trở thành nước phát triển có thu nhập cao”.
Đây là những mốc quan trọng trong quá trình phát triển mang tầm chiến lược của dân tộc. Để đi đến những cột mốc vẻ vang đó cần phải có tư duy mới đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình, kỷ nguyên đột phá, phát triển tăng tốc trên tất cả các lĩnh vực. Đích tới của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Muốn vậy cần tiếp tục phát huy và hoàn thiện sự nghiệp đổi mới dựa trên những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư và những kinh nghiệm đã rút ra, tiếp tục làm sáng tỏ về nội dung cụ thể trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và tổ chức bộ máy. Trong đó có vấn đề quan trọng là định hướng về công tác tư tưởng.
Sự đổi mới sáng tạo bao giờ cũng có hai mặt. Công tác tư tưởng phải nhận biết và định hướng để phát huy mặt tốt, mặt tích cực. Có thể khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội để có được thành tựu như ngày nay là một quá trình liên tục đổi mới về tư duy đến hành động phù hợp với thực tiễn của đất nước.
Khi tiếp cận được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin và thực tiễn của Cách mạng Tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh đã định hình được con đường giải phóng dân tộc mình, Người không áp dụng rập khuôn, máy móc, Người nói: “Cách mạng Việt Nam không giống Cách mạng Tháng Mười Nga, không giống Liên Xô”.
Đó là kết quả của việc tìm kiếm đường lối, từ phát hiện những mâu thuẫn của thực tiễn, sáng tạo vận dụng đề ra con đường cho dân tộc mình. Đó là sự kết kết hợp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, là mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp.
Đặc biệt vào thời điểm lịch sử lúc đó, tư duy đổi mới của Hồ Chí Minh về con đường giải phóng dân tộc chưa được Quốc tế Cộng sản thừa nhận nhưng bằng sự kiên định, bằng sự vận động và tuyên truyền, thuyết phục lại được mọi tầng lớp Nhân dân Việt Nam đồng tình và ủng hộ nên con đường cách mạng Hồ Chí Minh và Đảng ta vạch ra, đã đi vào cuộc sống mang đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, tiếp tục đánh đuổi “hai đế quốc to”, giành độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và đi lên Xã hội chủ nghĩa.
Quá trình đưa đất nước đi lên Xã hội chủ nghĩa cũng trải qua không ít vấp váp. Mặc dù đã có sự sáng tạo “bỏ qua giai đoạn phát triển Tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên Chủ nghĩa xã hội”; nhưng với cơ chế kinh tế hoạch hóa quan liêu, bao cấp dựa vào kinh tế quốc doanh và hợp tác xã, đất nước lâm vào khủng hoảng, “lạm phát phi mã”.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã tìm ra đường đổi mới, với tư duy “nhìn thẳng vào sự thật” và mạnh dạn xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế bao cấp chuyển sang cơ chế quản lý tuân theo quy luật thị trường.
Với việc mạnh dạn chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nội dung bao gồm nhiều vấn đề mới như thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, khoán hộ trong nông nghiệp, xóa bỏ tem phiếu, xóa bỏ cát cứ vùng “ngăn sông cấm chợ”, mở rộng hợp tác đầu tư, tìm cách xóa bỏ bao vây cấm vận… đã nhanh chóng đi vào cuộc sống.
Cùng với đổi mới trong kinh tế, Đảng ta đã tiến hành đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực đánh dấu bước ngoặt quan trọng trên con đường quá độ lên xã hội chủ nghĩa. Có thể nói những nội dung đổi mới làm đảo lộn mọi suy nghĩ và cách làm của một giai đoạn lịch sử, của một thế hệ cán bộ, song nhờ lòng tin vào Đảng trên cơ sở lý luận và thực tiễn chứng minh mà từng bước đã làm thay đổi được nhận thức, cùng với những nhân tố mới ra đời, những thành tựu đạt được đã khẳng định sự đúng đắn về đường lối đổi mới.
Quá trình hơn 95 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng phát triển tư duy lý luận về con đường độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội, tìm kiếm và sáng tạo ra mô hình cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững độc lập tự chủ, củng cố quốc phòng an ninh và hội nhập quốc tế.
Tuy vậy, cùng với những thành tựu đã đạt được cũng cần thẳng thắn và khách quan để nhìn ra những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm và nguyên nhân; nhận diện những điểm nghẽn, nút thắt của cơ chế quản lý đang kìm hãm sự phát triển của đất nước. Từ đó phải tiếp tục suy nghĩ để đổi mới tư duy với những chủ trương và giải pháp đột phá tạo động lực mạnh mẽ cho quá trình đưa đất nước phát triển đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Vấn đề nổi bật là qua nhiều nhiệm kỳ Đại hội và nhiều nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh đến việc cần đổi mới thể chế quản lý xã hội theo mô hình Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, dân làm chủ sao cho phù hợp với đổi mới kinh tế - xã hội, trong đó có nhiệm vụ cụ thể về tinh gọn tổ chức bộ máy và hệ thống chính trị trong giai đoạn mới.
Tuy nhiên, từ nhận thức và hành động chúng ta chưa có quyết tâm cao và chưa thật quyết liệt nên về tổng thể bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn mang tính bao cấp, cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối, trùng lặp, chồng chéo, thiếu đồng bộ và kém hiệu quả.
Sự nghiệp đổi mới của đất nước cùng với những thành tựu của khoa học công nghệ yêu cầu tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị phải có sự thay đổi thích ứng, nhiều vấn đề không còn phù hợp với điều kiện mới và trái với quy luật phát triển cần phải thay đổi.
Vì vậy, công tác trọng tâm hiện nay và thời gian tới và vận hành mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy mới của hệ thống chính trị đáp ứng với những yêu cầu và nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới trong giai đoạn mới.
Cần xem đây là cuộc cách mạng là nội dung quan trọng của kỷ nguyên vươn mình để xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiện toàn tổ chức bộ máy phải đi đôi với việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, gương mẫu, liêm chính, tận tụy, có năng lực tiếp cận cái mới và tư duy sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, công tâm, trong sáng vì lợi ích chung.
Lúc này việc hoàn thiện về lý luận trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trước những vấn đề mới đặt ra của lịch sử là điều rất quan trọng.
Việc nghiên cứu lý luận cùng với nhiệm vụ của công tác tư tưởng trước yêu cầu mới dựa trên trên cơ sở khoa học và tổng kết thực tiễn để tạo sự thống nhất và củng cố niềm tin trong Đảng và quần chúng Nhân dân là điều hết sức cấp thiết và vô cùng quan trọng.
Phải tạo được sự thống nhất trên dưới, trong ngoài, từ trung ương đến địa phương về nhận thức và tư duy cũng như nội dung và mục tiêu của kỷ nguyên vươn mình, gắn liền với cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy làm sao để vận hành thông suốt và thực sự có hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả.
Cần đưa vào Văn kiện của Đại hội Đảng về nội dung và nội hàm có tính bước ngoặt về tư duy của kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình mà đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh.
Đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, kỷ nguyên thịnh vượng dưới sự lãnh đạo cầm quyền của Đảng cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Mọi người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu, đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của đất nước, của khu vực và thế giới; cho hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu.
Trong đó nhiệm vụ hàng đầu là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.