Theo Bộ Tư pháp, Luật Hộ tịch chủ yếu luật hóa các quy định hiện hành (trong các nghị định của Chính phủ, thông tư và thông tư liên tịch của Bộ, liên Bộ) đã được thực tiễn kiểm nghiệm; đồng thời quy định một số nội dung mới theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, minh bạch, hiện đại gắn kết với việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch, nhằm bảo đảm lợi ích của người dân và tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch.
Lãnh đạo Bộ Tư pháp giới thiệu những điểm mới của Luật Hộ tịch (Ảnh: Bộ Tư pháp).
Cụ thể, so với quy định pháp luật hộ tịch hiện hành, Luật Hộ tịch đã đề cao vai trò hết sức quan trọng của công tác đăng ký hộ tịch, nhất là đăng ký khai sinh, cấp Giấy khai sinh và Số định danh cá nhân cho người được khai sinh khi đăng ký khai sinh.
Theo quy định của Luật Căn cước công dân, số định danh cá nhân được cấp cho mỗi công dân Việt Nam (nhằm mã hóa những thông tin cơ bản của công dân), không lặp lại ở người khác, được quản lý trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Đối với người dưới 14 tuổi, số định danh cá nhân được ghi vào Giấy khai sinh và đây chính là số thẻ căn cước công dân của người đó khi đủ tuổi được cấp căn cước công dân.
“Đó là quy định mang tính đột phá trong công tác quản lý hộ tịch và quản lý dân cư, là tiền đề quan trọng để tiến tới mục tiêu cắt giảm nhiều loại giấy tờ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân khi tham gia giao dịch, thực hiện thủ tục hành chính”- Bộ Tư pháp cho biết.
Luật Hộ tịch cũng quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử để lưu giữ thông tin hộ tịch của cá nhân (cùng với cơ sở dữ liệu giấy), kết nối để cung cấp thông tin hộ tịch cơ bản của cá nhân cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Theo đó, thông tin hộ tịch của cá nhân sẽ được quản lý tập trung, thống nhất; các Bộ, ngành, địa phương sử dụng thông tin công dân từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để phục vụ công tác quản lý của Bộ, ngành, địa phương mình (mà không phải nhập lại), cũng như giải quyết thủ tục hành chính cho người dân.
Bên cạnh đó nhiều quy định cải cách mạnh mẽ về trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch, tạo thuận lợi tối đa cho người dân (như: đơn giản hóa và cắt giảm nhiều giấy tờ không cần thiết khi đăng ký hộ tịch; cải tiến phương thức nộp hồ sơ để người dân lựa chọn - nộp trực tiếp, gửi qua bưu chính hoặc qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến khi điều kiện cho phép; giảm thời hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch).
Luật cũng đã quy định cá nhân có quyền lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch cho mình mà không phải phụ thuộc vào nơi cư trú như trước đây. Theo quy định của Luật Hộ tịch thì cá nhân có thể được đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thường trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống.
Đồng thời quy định khi đăng ký hộ tịch, người dân được cấp trích lục hộ tịch. Đối với một số việc hộ tịch quan trọng liên quan trực tiếp đến đời sống hàng ngày của người dân là khai sinh, kết hôn, Luật Hộ tịch quy định sau khi đăng ký người dân vẫn được cấp bản chính Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn.
Kể từ ngày 1/1/2016 khi Luật Hộ tịch có hiệu lực sẽ miễn lệ phí đăng ký hộ tịch cho người thuộc gia đình có công với cách mạng, người thuộc hộ nghèo, người khuyết tật; đăng ký khai sinh, khai tử đúng hạn, giám hộ, kết hôn của công dân Việt Nam cư trú ở trong nước.
Với quan điểm thực hiện phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương/cơ sở, Luật đã quy định UBND cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nước ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú trong nước, xác định lại dân tộc, trừ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thường trú tại khu vực biên giới còn người kia là công dân của nước láng giềng thường trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thường trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng thường trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho người nước ngoài cư trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam. UBND cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại.
Theo Bộ Tư pháp, quy định này nhằm phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của chính quyền địa phương và bảo đảm tăng cường vai trò quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh, tiến tới mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho chính quyền cơ sở khi điều kiện cho phép.
Đáng chú ý, Luật Hộ tịch quy định rõ tiêu chuẩn, trình độ của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch, nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ này, tăng cường trách nhiệm và tính chuyên nghiệp, hạn chế sai sót, vi phạm. Đi liền với đó quy định rõ trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch và những sai phạm trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tại địa phương do buông lỏng quản lý.
Bộ Tư pháp cho biết để Luật Hộ tịch được triển khai đi vào cuộc sống từ ngày 1/1/2016, Chính phủ sẽ ban hành nghị định quy định chi tiết các nội dung đã được giao trong Luật, bảo đảm các nội dung của Luật được triển khai thực hiện có hiệu quả. Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an khẩn trương rà soát, nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định các nội dung được giao trong Luật. Ngoài ra, để chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch, Bộ Tư pháp đang phối hợp với UBND các tỉnh/thành phố rà soát, bồi dưỡng nghiệp vụ hộ tịch và kiện toàn đội ngũ này, dự kiến từ nay đến năm 2016 phải chuẩn hóa đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch và đến trước ngày 1/1/2020 phải hoàn thành việc đào tạo đối với toàn bộ đội ngũ này. Các bộ, ngành, cơ quan liên quan ở Trung ương và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện pháp luật về hộ tịch; bảo đảm kinh phí, bố trí nguồn lực để triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định của Luật Hộ tịch; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến nhằm đưa Luật hộ tịch đi vào cuộc sống. |