Trong tiến trình lịch sử, chúng ta đã có 3 bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Đó là những “lời thề giữ nước”, những bản “thiên cổ hùng văn” vang dậy núi sông, truyền lại cảm hứng bao đời cho cháu con tiếp tục truyền thống tốt đẹp đó.
Chúng ta làm sao quên được trên trận tuyến sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) bản “Tuyên ngôn Độc lập” thứ nhất khẳng định rõ ràng: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở) vang lên dõng dạc khích lệ tinh thần binh sĩ dưới sự chỉ huy của tướng quân Lý Thường Kiệt chống quân Tống xâm lược.
Năm 1428, khi cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi đã viết “Bình Ngô đại cáo” như là bản “Tuyên ngôn Độc lập” thứ hai tiếp tục khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” không chỉ ở đất đai phong thổ mà còn cả linh khí đất trời; cả một sức mạnh bề dày văn hóa hun đúc nên tâm hồn con người để tạo ra khí phách.
Hơn 5 thế kỷ sau, ngày 2/9/1945, giữa Quảng trường Ba Đình nắng Thu vàng rực rỡ, giữa biển người với cờ đỏ sao vàng tung bay, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã bao năm bôn ba trên hành trình đi tìm hình của nước “Tìm đường đi cho dân tộc theo đi” (Chế Lan Viên) đã long trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”.
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” có ý nghĩa quan trọng, khẳng định chủ quyền quốc gia, quyền con người, quyền dân tộc được sống trong độc lập, tự do. Đó là kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, tinh thần và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất cho một nước Việt Nam độc lập, tự do.
Đây là văn kiện lịch sử vô giá, một kiệt tác chính luận, lời tuyên bố hùng hồn với thế giới về những nội dung đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc, khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới của thời đại Hồ Chí Minh.
Cùng với đó, bản “Tuyên ngôn Độc lập” còn chứa đựng những giá trị to lớn được coi là bản tuyên ngôn nhân quyền của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới.
Điều tuyệt vời là Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trích dẫn hai bản tuyên ngôn bất hủ của thế giới: Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng, tạo hóa cho họ nhân quyền không ai có thể xâm phạm được”; và tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng nước Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do về bình đẳng và quyền lợi”.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã phát triển sáng tạo khi khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thực sự của dân tộc.
Người đã đưa ra một mệnh đề không thể phủ nhận về quyền độc lập của mọi dân tộc: “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Minh họa: Tiến Thành. |
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” chỉ 1.120 chữ được sắp xếp trong 49 câu là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn chặt chẽ sắc bén bao gồm 3 phần chính: Cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn – Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn và lời tuyên bố độc lập!
***
Nhạc sĩ Vũ Thanh đã gửi gắm bao tình cảm dào dạt với giai điệu ngân vọng da diết mà thật thiêng liêng trong bài hát “Hà Nội mùa Thu”: “Như bâng khuâng/Nghe gió đưa vang vọng giữa Ba Đình/Lời mùa Thu năm ấy/Màu cờ Thu năm ấy/ Vẫn đây xanh trời mây”.
Chúng ta ngỡ như vẫn còn nghe vọng lại cả biển người như nuốt từng lời của Bác đầm ấm rõ ràng khúc chiết. Bỗng bất ngờ khi đọc “Tuyên ngôn Độc lập” Bác dừng lại giữa những tràng vỗ tay hoan hô rồi ân cần thân mật hỏi: “Đồng bào nghe tiếng tôi rõ không?”(*). Người vẫn sợ rằng, với giọng nói xứ Nghệ âm sắc nằng nặng có thể nhiều người nghe không rõ.
Đây là một câu nói không có trong văn bản mà làm rung động lay thức vô cùng khi cả quảng trường đồng thanh hô vang như sóng dậy: “Có!”. Từ lúc đó, khoảng cách giữa lãnh tụ và người dân không còn. Ai cũng thấy vị cha già dân tộc đối với mình như người ông, người cha gần gũi, thân thiết nhất.
Khát vọng độc lập, tự do ấy còn được thể hiện sau hơn 20 năm khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đến thời kỳ ác liệt nhất. Đó là ngày 17/7/1966 qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Vâng, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành mệnh lệnh trái tim của toàn dân Việt. Đó là lời thề: “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” của Trung đoàn Thủ đô năm 1946 chống thực dân Pháp. Đó là lời hô: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” của Nguyễn Viết Xuân trên mâm pháo phòng không bắn máy bay Mỹ. Tất cả đã trở thành hành động thiết thực, tự nguyện đồng tâm để làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, một đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử.
***
78 năm trôi qua nhưng bản “Tuyên ngôn Độc lập” vẫn còn nguyên vẹn giá trị và luôn rung ngân thiêng liêng.
Thưa Bác, tuy Bác đã đi xa nhưng hình ảnh Người trên đài cao quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 vẫn sống mãi trong lòng dân tộc. Tư tưởng, đạo đức, phong cách trong sáng của Người là niềm tự hào cho các thế hệ mai sau học tập và noi theo. Hai tiếng Việt Nam – Hồ Chí Minh vang lên trong lòng nhân loại là một kết tinh biểu tượng cao đẹp của truyền thống khí phách, tâm hồn dân tộc Việt Nam hôm nay và mãi mãi…