Nó đem thắc mắc hỏi má. Má lặng im. Hỏi ba. Ba chỉ mỉm cười. Thay cho câu trả lời, ba kéo nó vào lòng, vuốt ve làn tóc mây mượt mà đến ngang lưng của nó, rồi âu yếm thơm lên làn tóc ấy như muốn nói với nó rằng: “Mặc thiên hạ xằng bậy tùm lum, chỉ có là con của ba má thì mới được cưng chiều, yêu thương như thế!”…
Năm lên sáu tuổi, nó đi học, ở lớp có hai bạn trùng tên, để phân biệt, cô quy ước bạn kia là Thảo “A”, nó là Thảo “B”; nhưng các bạn vẫn cứ Thảo “lai” mà réo. Ban đầu, Thảo không thưa, như một cách phản kháng với tên gọi mà nó không muốn. Nhưng các bạn gọi miết, bắt Thảo phải thưa mới chịu. Từ đó, nó chấp nhận biệt danh một cách miễn cưỡng.
Mười ba tuổi, cơ thể Thảo phổng phao hơn các bạn cùng trang lứa. Nó đã dậy thì. Thảo soi gương, thấy mình rất khác các bạn. Tóc đen như má, nhưng mắt thì lại màu nâu, mũi cao thẳng dài. Đặc biệt, nước da của Thảo trắng như trứng gà bóc vỏ, dù nó đã cố tình đi nắng không nón mũ, để da cháy đen như lũ con gái cùng trang lứa, nhưng không được, da đỏ hồng lên, hết nắng lại trắng như bình thường!
- Cha tao bảo, trước khi má lấy ba nó, chuyển về vùng quê này sinh sống, má nó làm gái ở Sài Gòn rồi đẻ ra nó. Chắc chắn, ba thiệt của nó là lính Mỹ... Thằng Sửu oang oang công bố tin động trời giữa lớp.
- Không phải! Ba tao là bộ đội giải phóng. Ba từ Bắc vào Nam đánh giặc rồi lấy má tao. Thảo gào lên uất ức rồi khóc tức tưởi. Cô giáo xuất hiện, thằng Sửu bị gọi lên Ban giám hiệu viết bản kiểm điểm.
Trong buổi sinh hoạt cuối tuần, cô giáo chủ nhiệm giơ tờ giấy khai sinh của Thảo lên rồi nói với cả lớp.
- Học bạ và giấy khai sinh của bạn Nguyễn Phương Thảo đều ghi có cha là Nguyễn Mạnh Chiến thương binh, bộ đội phục viên; mẹ là Huỳnh Phương Thanh, nghề nghiệp nội trợ. Những gì Sửu nói về bạn là không đúng và đã bị kỷ luật. Từ nay, cô cấm các em không được gọi là Thảo “lai”nữa, rõ chưa?!
“Rõ rồi ạ!?”. Cả lớp đồng thanh theo. Thằng Sửu cúi gằm mặt xuống bàn học. Bố nó là lính chế độ cũ, cùng xóm với nhà Thảo. Nó nghe lỏm câu chuyện đó giữa ba và má rồi kể lại không thêm không bớt. Khi ba thằng Sửu bị nhà trường mời lên làm việc, lúc trở về, ông giận lắm, lôi Sửu ra cho một trận đòn nhừ tử. Trận đòn đủ để nó biết sợ chứ không phục, vì rõ ràng, tai nó đâu có điếc! Từ hôm đó, thằng Sửu kiềng mặt Thảo, không dám trêu chọc nữa.
Nhưng biệt danh “lai” thì vẫn bám lấy Thảo. Một chiều, có bà dáng vẻ phốp pháp từ Sài Gòn xuống đặt vấn đề xin nhận Thảo “lai” làm con nuôi. Bà ta dúi vào túi má một xấp tiền với lời hứa sẽ cho Thảo ăn sung, mặc sướng; sau này nếu làm thủ tục đi trót lọt, còn đón cả ba má Thảo sang bển theo diện đoàn tụ.
Má Thảo hất tay ra không nhận xấp tiền bự đó rồi mắng xối xả vào mặt người đàn bà lạ: “Kỳ quặc, con tui chứ có phải con gà, con heo đâu mà bán…!”. Ba thì từ tốn hơn, ông nói nhỏ vào tai người người đàn bà ấy câu gì đó, đủ để bà ta lặng lẽ rời đi.
Sau này, Thảo mới biết, bà muốn mua cái hình dáng lai tây của Thảo. Chuyện mắc cười, nhưng thiệt. Nghe nói là để làm thủ tục xin xuất cảnh sang Hoa Kỳ.
Bữa cơm hôm đó, Thảo đột nhiên nói với má:
- Con muốn có em bé!
Không khí gia đình chùng xuống. Ba lặng lẽ mang điếu cày ra sân rít sòng sọc một hơi dài, rồi đăm chiêu nhìn làn khói trắng uốn éo bay lên một cách vô thức. Còn má thì ôm nó vào lòng thủ thỉ.
- Con cái là trời cho. Đâu phải muốn là được. Nhà có một mình con, ba má càng dành tình yêu thương chớ sao!
Má nói đúng, nó được ba cưng, má chiều, không như những đứa cùng lứa, suốt ngày bị la mắng vì biếng làm việc nhà. Nhưng nó muốn làm một phép thử, để coi em sinh ra có giống hình hài như nó hay không?...
Ấy là câu chuyện của hơn bốn mươi năm về trước. Còn Thảo bây giờ đã là một phụ nữ tuổi ngũ tuần, đang cùng con gái ở chung nhà với ông Chiến bà Thanh. Khi con Thảo vừa đầy tuổi, chồng Thảo bỏ đi làm ăn xa, rồi biền biệt tin tức không về…
* * *
Những năm đầu giải phóng, Sài Gòn như một bãi rác khổng lồ, quần áo, tư trang của ngụy quân được trút bỏ, vứt vương vãi khắp nơi, trôi bồng bềnh trên sông Sài Gòn. Các lực lượng quân quản, thanh niên sinh viên khí thế ngút trời, đang cố gắng dọn dẹp xóa đi những tàn tích của chế độ cũ.
Ánh đèn thành phố bật sáng, một cô gái lững thững đi bộ đến khu vực cầu Tân Cảng. Đến đoạn giữa của cầu, cô nhìn xuống dòng nước lững thững trôi, đang cuốn đi những rác rưởi chảy xuôi ra biển... Cô thầm nghĩ, mình cũng là một trong những thứ rác rưởi ấy. Người như cô sẽ không còn chỗ đứng tại thành phố này.
Ánh mắt cô hướng về phía Tây Sài Gòn, nơi ăn chơi phồn hoa một thời của “hòn ngọc viễn Đông”, rồi cô lại cúi gằm mặt xuống, nhìn chăm chăm vào khoảng tối đen ngòm dưới dòng nước. Cô đang định leo qua lan can để lao mình xuống khoảng tối ấy thì có tiếng quát to làm cô giật mình:
- Cô kia, làm gì ở đấy!
Theo quán tính, cô dừng lại, ngoái đầu về phía sau, nhìn thấy một anh bộ đội giải phóng, đeo khẩu AK sau vai, nét mặt nghiêm nghị. Cô hoảng hốt, luống cuống leo qua lan can, nhưng không kịp!
- Cô làm cái quái gì thế, muốn chết à? Cô không thấy, bao thanh niên đang hồ hởi đón chào thành phố giải phóng, chung tay xây dựng cuộc sống mới. Thế mà cô!
Vừa nói, anh bộ đội vừa kéo tay cô gái về phía đầu cầu, nơi có trạm gác của Ban quân quản.
- Tôi xin ông, đừng đưa tôi đến đó, tôi còn có đứa con trong bụng! Cô gái nói trong tiếng đứt quãng vì lo sợ.
Đến lúc này, anh bộ đội mới có dịp quan sát cô gái: Dù không son phấn, nhưng với hàng lông mày tỉa nhỏ, đôi lông mi uốn cong, khuôn mặt trái xoan xinh xắn, chiếc quần ống loe bó sát đôi chân dài thon thả, anh bộ đội phần nào đoán được lý do vì sao cô sợ bị đưa tới Ban quân quản.
- Có phải cô làm ở bên kia thành phố, nơi những quán Bar girl hoạt động xung quanh căn cứ không quân của chế độ cũ?
Cô gái không trả lời, mà cúi gằm mặt xuống đất. Anh bộ đội giải phóng chợt nhận ra câu hỏi của mình kém phần tế nhị nên quay sang hỏi han nhà cửa, quê quán cô gái ở đâu, có còn ai thân thích không? Khi biết quê cô gái ở miền Tây Nam bộ, gia đình ly tan trong chiến tranh, cô cũng không muốn quay về vùng quê đó vì mặc cảm đứa con lai trong bụng, anh bộ đội giọng trầm xuống:
- Thế bây giờ cô định đi đâu? Tôi sẽ đưa cô về đó. Nhưng cô phải hứa sẽ không làm chuyện gì dại dột...
Cô gái ngoan ngoãn gật đầu. Đó cuộc đối thoại làm lên duyên phận giữa ông Chiến, bà Thanh. Anh bộ đội giải phóng mang trong mình niềm trắc ẩn của một sinh viên văn khoa buông bút nghiên nhập ngũ vào Nam đánh giặc, đã giang tay bao bọc cô gái.
Anh đứng ra nhận là cha đứa trẻ trong bụng cô. Mới đầu chỉ là tình thương để cứu cô khỏi sự bế tắc. Sau dần, cuộc hôn nhân giả tạo ấy đã nảy sinh tình cảm thật, họ yêu nhau và nguyện gắn bó với nhau suốt đời.
Chỉ tiếc, những tháng ngày ăn rừng ở rú, ngoài căn bệnh sốt rét và vết thương trái nắng trở trời hành hạ, ông còn bị phơi nhiễm chất độc da cam. Ngày trẻ, ông chưa nhận thức được tác hại của thứ chất độc giết người này. Nhưng việc bà Thanh cứ sẩy thai hoài, làm ông chợt nhận ra rằng, đến cỏ cây còn không mọc được trên những cánh rừng Trường Sơn, nơi đơn vị ông hành quân qua, nữa là một con người bằng xương thịt như ông.
* * *
Chiếc xe ô tô đỗ sịch đầu ngõ làm những ánh mắt đổ dồn vào một người nước ngoài cao, gầy, tóc trắng xóa, da nhăn nheo, đầy những vết đồi mồi, run rẩy chống ba-toong bước xuống, tập tễnh đi vào nhà ông Chiến. Bên cạnh ông ta là một cô gái Việt. Cô ta giới thiệu đến từ một tổ chức phi chính phủ hỗ trợ cựu binh Hoa Kỳ. Người đàn ông nước ngoài có tên là John Mackenze từng là phi công quân sự tại Sài Gòn, nay trở lại Việt Nam tìm con gái thất lạc trong chiến tranh.
“Tìm con gái thất lạc tại sao lại đến đây?”, Thảo chột dạ nhìn về phía ba Chiến nhưng thấy vẻ mặt ông rất bình thản.
Từ ngày bà Thanh mất vì suy tim, Thảo thấy thái độ ba rất lạ. Ông trầm tư, ít nói, trái ngược với tính cách sôi nổi trước kia. Thì cũng phải, má Thanh mất là một cú sốc đối với ông. Vậy nên, Thảo nghĩ phải gần gũi, dành sự quan tâm nhiều hơn đến ba.
Nhưng mỗi khi Thảo thể hiện sự quan tâm đó bằng những món đồ, lúc thì mấy lọ thực phẩm chức năng để chữa trị xương khớp, lúc thì mấy hộp yến để ông bồi bổ sức khỏe; ông đều nạt, ông thương hai mẹ con Thảo vất vả, ngày ngày đẩy chiếc xe ba bánh tự chế đi bán dạo bắp xào ở cổng trường tiểu học có kiếm được là bao, lo ông chi cho mệt!
Rồi ông còn nói với mẹ con Thảo, nguyện vọng cuối đời muốn trở ra Bắc sinh sống và chết trên mảnh đất quê hương… Ông nói toàn những điều gở, khó lọt tai. Thảo đời nào cho ông đi! “Trẻ cậy cha, già cậy con”, ông chỉ có đúng Thảo là con gái, công ơn sinh thành còn chưa đền đáp, ai lại phó mặc ông một mình ngoài đó.
- Ba xin lỗi đã không đủ dũng cảm nói ra sự thật. Ba bị bệnh không thể có con chung với má. Ba chỉ có một mình Thảo là con nên không muốn ai giành mất. Ba thật ích kỷ phải không?! Nhưng má con không còn nữa, giờ là lúc con cần biết gốc gác của mình…
Giọng ông Chiến vỡ vụn trong nước mắt. Tất cả những lời ông thốt ra được cô gái trẻ dịch lại cho ông Mackenze nghe. Người cựu binh Mỹ tiến đến ôm lấy bờ vai đang rung lên vì xúc động của người đàn ông nhỏ bé, nhưng mang trong mình trái tim lớn đầy nghĩa hiệp, đã thay ông bao bọc nuôi dưỡng con gái của kẻ đối địch bên kia chiến tuyến.
Như để minh chứng thêm lòng tin cho Thảo, cô gái trẻ tiếp lời ông Chiến.
- Mọi dữ liệu kiểm chứng đều trùng khớp, kể cả mẫu ADN ông Chiến lén lấy gửi cho chúng tôi. Đây là cha ruột của chị. Ông ấy muốn đưa hai mẹ con chị sang Mỹ sống cùng ông trong phần đời còn lại. Ông không có gia đình bên ấy nên chị và cháu sẽ là người thừa hưởng gia sản của ông…
Cho dù ông Chiến và bà Thanh giấu điều bí mật hàng chục năm nay không nói ra với Thảo nhưng đã từ lâu, linh cảm mách bảo Thảo không phải là con gái ruột của ba Chiến. Tuy vậy, trong sâu thẳm con tim mình, Thảo vẫn luôn coi ông Chiến là ba ruột.
- “Gia sản” ư? Tôi không cần gia sản! Đối với tôi, ba chính là gia sản quý báu nhất trong cuộc đời này! Các vị có quan tâm tới cảm xúc của tôi không, từ khi sinh ra, tôi chỉ biết đến tình cảm của ba chứ không phải từ người đàn ông xa lạ kia. Rồi một ngày, bỗng nhiên ông ta xuất hiện tại đây, nói là cha của tôi và nghĩ tôi sẽ bỏ ba Chiến mà đi được sao? Huyết thống mà không có yêu thương thì cũng chỉ là sợi chỉ máu nhạt màu…
Ông Mackenze lắng nghe, phẩy tay ra hiệu cô gái trẻ không cần dịch lại. Nhìn vào thái độ của Thảo, hàng nước mắt đẫm lệ trên gò má, ông hiểu vị trí của mình lúc này. Bằng tất cả vốn tiếng Việt đứt gãy còn sót lại, ông Mackenze bật ra từng tiếng:
- Tôi xin lỗi đã khuấy động cuộc sống của hai cha con. Nhưng tôi vẫn muốn có mặt tại đây để cảm ơn ông Chiến - một người cha vĩ đại… Tôi thấy chuyến đi này không thất bại. Tôi hạnh phúc vì được nhìn thấy con gái và cháu gái của mình.
Ông lấy ra trong túi một chiếc hộp nhỏ đã cũ kỹ, bên trong là một chiếc nhẫn cưới bằng vàng tây sáng loáng rồi tiếp tục:
- Đây là chiếc nhẫn cưới có khắc tên tôi và Thanh, đám cưới đã không kịp diễn ra vì diễn biến quá nhanh ở chiến trường lúc bấy giờ. Nay xin được tặng lại kỷ vật này cho con gái…
Ông Chiến phá tan khoảnh khắc im lặng kéo dài, sau khi ông Mackenze đưa ra kỷ vật thể hiện tình cảm nghiêm túc của ông với bà Thành.
- Nếu con không muốn đi, thì vẫn nên nhận ông ấy là cha và giữ mối liên lạc với ông ấy. Từ bây giờ, con có hai người cha, một người đã cho con sự sống và một người đã bên cạnh, nuôi dạy con nên người.
Thảo nhìn vào đôi mắt đã đục mờ của ba Chiến để thẩm thấu hơn sự chân thành trong lời nói của ông; rồi cô quay sang vẻ mặt khắc khổ, già nua của ông Mackenze. Bàn tay ba Chiến bóp nhẹ vào bàn tay của Thảo như tiếp thêm cho cô động lực. Cô tiến tới bên cánh tay đang giang rộng để cảm nhận tình cảm nồng ấm của người cha bên nửa kia của bán cầu…
Ánh nắng trải dài xuống con ngõ nhỏ, in bóng người đàn ông ngoại quốc lặng lẽ quay bước trở ra xe. Trước khi chiếc xe lăn bánh, ông còn ngoái nhìn qua ô cửa kính, khẽ đưa tay vẫy chào. Mảnh đất từng là nỗi ám ảnh suốt cuộc đời ông vì những tội lỗi trong chiến tranh, tưởng chừng sẽ không bao giờ quay lại, nay bỗng trở nên đầy lưu luyến...