Cụ thể, Phó Thủ tướng đồng ý việc thanh toán tiền mua cổ phần trả chậm của người lao động quy định tại Nghị định số 64/2002/NĐ-CP ngày 19/6/2002 và Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần theo hình thức sau:
Đối với người lao động đang làm việc tại công ty cổ phần, người lao động đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác không còn làm tại công ty cổ phần thì được trừ vào tiền cổ tức được chia hàng năm nếu người lao động muốn thanh toán mà hiện tại chưa đủ khả năng thanh toán nợ cho nhà nước. Số tiền trả chậm không phải tính lãi.
Người lao động mua cổ phần trả chậm thỏa thuận bán lại hoặc trả lại cho nhà nước số cổ phần ưu đãi trả chậm được quy ra từ số tiền trả chậm còn nợ đối với trường hợp người lao động nghèo không muốn thanh toán nốt số tiền còn nợ cho nhà nước.
Công ty cổ phần có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan liên quan thực hiện việc thanh toán tiền mua cổ phần trả chậm của người lao động.
Số tiền thu được từ việc bán cổ phần trả chậm cho người lao động nghèo nộp về Quỹ hỗ trợ sắp xếp và phát triển doanh nghiệp theo quy định tại Quyết định số 21/2012/QĐ-TTg ngày 10/5/2012 của Thủ tướng Chính phủ và Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp tại các Công ty mẹ của Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước, Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con theo quy định tại Thông tư số 10/2013/TT-BTC ngày 18/01/2013 của Bộ Tài chính.
Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện, bảo đảm công khai, minh bạch và tổng hợp tình hình thu hồi nợ của người lao động mua cổ phần trả chậm đến thời điểm 31/12/2015, tiếp tục nghiên cứu để có biện pháp giải quyết nếu vẫn còn tồn tại, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý II/2016.