Ngoài môn chuyên ngành, nếu không có chứng chỉ ngoại ngữ, người học không đủ điều kiện để xét tốt nghiệp. Điều này đồng nghĩa, thời gian nhận bằng sẽ kéo dài với nhiều bất tiện.
Chật vật ôn thi
Theo quy định của Bộ GD&ĐT, chuẩn đầu ra ngoại ngữ được xác định theo Khung trình độ quốc gia Việt Nam ban hành năm 2016 (số 1982/QĐ-TTg). Theo đó, yêu cầu với người có bằng đại học là năng lực ngoại ngữ bậc 3/6 theo Khung năng lực ngoại ngữ của Việt Nam (tương đương trình độ B1 theo khung châu Âu). Bằng B1 đang là mức tối thiểu được phần lớn cơ sở giáo dục đại học dùng để xét đầu ra ngoại ngữ.
Tuy nhiên, tùy từng trường, khối ngành với đặc thù riêng mà yêu cầu về chuẩn đầu ra có sự thay đổi. Ngoài Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam (chứng chỉ VSTEP), nhiều chứng chỉ quốc tế như IELTS, TOEIC, TOEFL và các ngôn ngữ khác cũng được cơ sở giáo dục đại học sử dụng để quy đổi.
Theo đó, sinh viên phải đạt ngưỡng B1 theo khung tham chiếu châu Âu, điểm IELTS từ 4.5 - 6.5 hay TOEIC từ 450 - 550. Một số khối ngành chất lượng cao, ngành ngôn ngữ hay chương trình quốc tế thì yêu cầu sẽ cao hơn đối với từng ngoại ngữ. Sinh viên có thể lựa chọn một trong số chứng chỉ này hoặc thi nội bộ tại trường để đủ điều kiện xét tốt nghiệp.
Điều đáng nói là dù chuẩn đầu ra ở mức độ cao hay thấp thì đây vẫn là một trong những trở ngại lớn của sinh viên năm cuối, nhất là khi trình độ ngoại ngữ không phải thế mạnh.
Lê H.A (sinh viên năm 4 chuyên ngành Báo mạng điện tử, Học viện Báo chí và Tuyên truyền) mỗi tuần dành ba buổi tối để ôn tập ở trung tâm tiếng Anh. Yêu cầu của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đối với các ngành thuộc khối lý luận là chứng chỉ tiếng Anh mức B1 hoặc chứng chỉ tiếng Trung HSK3; với khối nghiệp vụ là chứng chỉ tiếng Anh mức B2 hoặc bằng HSK4. H.A chia sẻ:
“Do mất gốc nên ban đầu em chọn học khóa học TOEIC vì chứng chỉ này phổ biến và cũng dễ hơn bởi chỉ có 2 kỹ năng chính. Nhưng sau khi tìm hiểu mới biết trường yêu cầu 4 kỹ năng đối với bằng TOEIC, em lại học khối nghiệp vụ nên đầu ra cao hơn. Cân nhắc xong em quyết định quay về học VSTEP để rút ngắn thời gian, cũng đỡ rủi ro vì có thể thi nội bộ tại trường nếu không đạt”.
Cũng giống như H.A, Nguyễn Huy N. P. (sinh viên năm 4, chuyên ngành Quay phim truyền hình, Học viện Báo chí và Tuyên truyền) đang gấp rút ôn tập lấy chứng chỉ tiếng Anh để kịp xét tốt nghiệp. Vốn tiếng Anh chỉ dừng ở mức căn bản nên N. P. cảm thấy áp lực khi phải cân đối thời gian học ngoại ngữ và lên lớp.
“Bản thân bị căng thẳng mỗi khi nghĩ đến chứng chỉ đầu ra tiếng Anh. Năm cuối rồi, vừa đi học vừa thực tập, chưa kể làm thêm. Quỹ thời gian vốn eo hẹp mà phải gồng thêm môn quan trọng khiến em mệt mỏi, thế nhưng cũng không thể bỏ ngang được”, N.P. nói. Ngoài chứng chỉ tiếng Anh, nam sinh còn phải thi thêm chứng chỉ Tin học mới đủ điều kiện ra trường trong năm nay.
Một trường hợp khác là Hoàng D. (sinh viên năm 4, ngành Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật công nghiệp) vừa trải qua kỳ thi TOEIC do trường kết hợp với IIG Việt Nam tổ chức để lấy chuẩn đầu ra. Mặc dù mức điểm điều kiện có phần nhẹ nhàng hơn nhưng D. mất một khoảng thời gian dài để ôn tập. Nam sinh cho biết:
“Chương trình trên lớp chỉ phù hợp để thi học phần. Trình độ ngoại ngữ của sinh viên mỗi người một khác nên bạn nào mất gốc sẽ khó theo kịp vì thầy cô dạy rất nhanh, do tiếp nối từ chương trình THPT. Không đi học thêm thì gần như không có kỹ năng để làm đề thi với 4 kỹ năng”. Năm cuối, D. đã nghỉ làm thêm, dành phần lớn thời gian học tại nhà và hoàn thiện các môn học trên lớp.
Bảng tham chiếu quy đổi chứng chỉ ngoại ngữ của Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Ảnh: ITN |
Phân bố thời gian và lộ trình học
Nói về thực trạng trình độ tiếng Anh của sinh viên hiện nay, cô Nguyễn Thị Ngọc Trang - giáo viên Tiếng Anh, Trường THPT Hà Thành (dạy TOEIC và IELTS tại một trung tâm tiếng Anh tại Hà Nội) cho rằng, có sự chênh lệch tương đối lớn giữa sinh viên. “Nhiều em có khả năng học tốt do đầu tư từ sớm. Nhưng đa số sinh viên mất gốc từ bậc phổ thông. Khi lên đại học, các em không theo kịp chương trình học trên lớp, thêm sức ép từ đầu ra ngoại ngữ nên càng thấy sợ, dễ chán nản và mông lung không biết bắt đầu từ đâu”.
Cũng theo cô Trang, chương trình học trên lớp theo tín chỉ, chưa phù hợp với mục tiêu chuẩn đầu ra ngoại ngữ và cấu trúc đề thi thực tế. Thời lượng tiết học cũng ảnh hưởng ít nhiều vì giảng viên không đủ thời gian để vừa dạy theo chương trình, vừa chỉ các kỹ năng làm bài thi.
Để có thể ôn tập tiếng Anh tốt nhất, sinh viên cần đầu tư thời gian, tìm lộ trình phù hợp với trình độ và mục đích học. “Hai năm cuối chương trình học nặng và quỹ thời gian không nhiều. Sinh viên cần đánh giá đúng năng lực ngoại ngữ, từ đó mới có thể xây dựng được kế hoạch ôn thi phù hợp. Học vững ngữ pháp, từ vựng và cố gắng tăng cường giao tiếp, luyện nghe mỗi ngày để chắc kiến thức”.
Một số sinh viên sau khi theo học tại các trung tâm ôn luyện nhận thấy phần lớn dạy theo mẫu để đi thi, kiến thức sử dụng trí nhớ ngắn hạn và các mẹo làm bài nên chỉ được một thời gian sẽ quên hết. Vậy nên, theo cô Trang, sinh viên cần học ngoại ngữ từ sớm, vừa có kiến thức thật sự và không gặp áp lực đối với chuẩn đầu ra để xét tốt nghiệp.
Khung trình độ quốc gia Việt Nam có 8 bậc: Bậc 1 - Sơ cấp I; Bậc 2 - Sơ cấp II, Bậc 3 - Sơ cấp III, Bậc 4 - Trung cấp; Bậc 5 - Cao đẳng; Bậc 6 - Đại học; Bậc 7 - Thạc sĩ; Bậc 8 - Tiến sĩ.
Theo quy định, chuẩn đầu ra bao gồm: Kiến thức thực tế và kiến thức lý thuyết; Kỹ năng nhận thức, thực hành nghề nghiệp và kỹ năng giao tiếp, ứng xử; Mức độ tự chủ và trách nhiệm cá nhân trong việc áp dụng kiến thức, kỹ năng để thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn.
Khối lượng học tập tối thiểu, được tính bằng số tín chỉ người học phải tích lũy cho mỗi trình độ. Văn bằng, chứng chỉ là văn bản công nhận kết quả học tập của cơ sở giáo dục đối với cá nhân sau khi kết thúc một khóa học, đáp ứng chuẩn đầu ra do cơ sở giáo dục quy định.