Cánh buồm - khát vọng về bình yên, một ngày mai tươi sáng
Quê hương được viết từ khi Tế Hanh còn là một chàng trai trẻ 19 tuổi, xuất hiện lần đầu trong tập “Nghẹn ngào” (1939). Với những vần thơ bình dị nhưng không kém phần phần hình ảnh, Tế Hanh đã mở ra một làng chài đẹp đẽ, tràn trề sức sống. Cũng từ bài thơ ta thấy được niềm thao thiết chảy trong thơ ông là quê hương với những tình cảm thiết tha và chân thành nhất.
Mở đầu bài thơ là một lời đề từ, được Tế Hanh chú thích là câu thơ của phụ thân ông: “Chim bay dọc biển mang tin cá”. Lời đề từ gợi lên một hình ảnh thân quen chốn làng chài, từ đó dẫn dắt người đọc về chốn thôn quê của mình. Làng chài ven biển được Tế Hanh giới thiệu vô cùng bình dị qua câu thơ đầu tiên.
Đó là một làng chài ven biển, là nơi làng tôi ở. Nhưng câu thơ thứ hai lại cho thấy được cái tài tình của tác giả. Nước bao vây trở thành đường viền bao bọc cả ngôi làng. Khoảng cách địa lý cũng được đo bằng nước, bằng nửa ngày sông. Thời gian được đo bằng không gian mênh mông của trời và nước, vừa thực lại vừa thơ mộng. Nhờ vào cái tài tình ấy mà quê hương của Tế Hanh hiện lên thật đẹp đẽ, đầy đặn trong lòng người. Và ẩn đằng sau đó là niềm tự hào, kiêu hãnh về quê hương mình.
Sau câu mở đầu giản dị, sáu câu thơ tiếp theo cảm hứng như đã được khơi gợi từ hình ảnh đoàn thuyền ra khơi đánh cá:
Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Đó là khung cảnh tươi đẹp của một ngày mới nơi chốn làng chài, với “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng” và những chàng trai cường tráng, khỏe mạnh bơi thuyền đi đánh cá. Cả câu thơ vừa có cả tính họa lẫn tính nhạc. Tế Hanh đã vẽ nên bức tranh đẹp với chất liệu ngôn ngữ có sớm mai hồng cùng làn gió nhè nhẹ với trời trong mây trắng. Trong cảnh đẹp vô ngần ấy, là hình ảnh dân làng trai tráng ra khơi đánh cá. Con thuyền trong đôi mắt tinh tế của tác giả trẻ trung, năng động tựa những anh trai làng. Những chàng trai ấy mang trong mình sự mạnh mẽ, sự trẻ trung và khỏe mạnh, có thể “bơi thuyền” ra khơi. Nhịp thơ 3/2/3 như câu hát trìu mến, đầy thân thương, đưa tiễn người ra khơi vạn dặm.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Trong bức tranh ra khơi ấy, chiếc thuyền có thể xem là nhân vật trung tâm. Nó được so sánh với con tuấn mã – một con ngựa đẹp và khỏe khoắn. Hai động từ nhẹ và hăng tạo nên một sắc thái gợi cảm. Bóng dáng của một con thuyền rẽ sóng ra khơi vượt trùng dương ra khơi như một con ngựa đang phi nước đại trên thảo nguyên rộng lớn. Ngay sau đó con thuyền lại được nhân hóa, so sánh tựa một chàng thanh niên vạm vỡ, phăng mái chèo ra khơi xa. Con thuyền ấy bừng bừng khí thế, mạnh mẽ rẽ sóng ra khơi, sự hồ hởi của nó tạo nên một sức sống riêng.
Người dân chài vốn bình thường cũng trở nên tráng lệ hơn nhiều. Đó không chỉ đơn thuần là một công việc lao động đánh cá mưu sinh mà còn là cơ hội để người dân giao hòa, giao cảm với thiên nhiên, khám phá biển khơi vô tận. Họ mang trong mình khát vọng vượt trường giang, vững tay chèo qua muôn ngọn sóng. Từ con thuyền liên tưởng đến người dân trai tráng đầy sức sống, dòng thơ cứ nhẹ nhàng tuôn chảy, đẩy câu thơ đi liền một mạch theo dòng cảm xúc dào dạt của nhà thơ. Ngọn bút của thi nhân chỉ điểm phớt qua vài nét mà cảnh vật như bừng sáng:
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Cánh buồm trong câu thơ được đặc tả xuất thần và đầy đặc sắc. Biết bao thi tứ đã nảy sinh từ cánh buồm kiêu hãnh và thơ mộng. Lec-môn-tôp (nhà thơ Nga) có bài thơ trữ tình nổi tiếng về một cánh buồm khao khát đời giông tố:
Thấp thoáng xa xa một cánh buồm
Chập chờn trên biển cả mù sương
Buồm kiếm tìm chi nơi đất lạ?
Giã từ chi đó chốn quê hương?
(Thuý Toàn dịch)
Thơ Nguyễn Bính cũng có một cánh buồm đau đáu nhớ nhung:
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...
Sau này, Hoàng Trung Thông còn mượn hình tượng những cánh buồm để trò chuyện với con mình... Có bao nhiêu cánh buồm trong thơ ca là có bấy nhiêu cách cảm nghĩ khác nhau về hình tượng đó. Đối với Tế Hanh, cánh buồm vôi ấy lại có một góc nhìn khác qua cửa sổ tâm hồn phong phú của ông.
Cánh buồm mỏng manh như “mảnh hồn làng”, như là cả linh hồn và tâm hồn bao la, rộng mở của quê hương. Cái vô hình, vô sắc như “hồn” ấy vậy mà lại được cụ thể hóa với một vật hữu hình, một vật có đường nét, màu sắc và hình khối. Cánh buồm vốn mộc mạc, gần gũi trở thành một hình ảnh giàu tính tượng trưng và bay bổng.
Chính Tế Hanh từng tâm sự: “Tuổi thơ của tôi đã trải qua những cái mùi mặn mặn của những mẻ cá và trong tiếng vừa bát ngát vừa êm đềm của bốn bề sóng vỗ. Trên làng tôi, quay mặt về phương nào cũng thấy những tấm lưới, những mái chèo và nhất là những cánh buồm căng gió”.
Cánh buồm ấy được nhân hóa, nó có thể rướn thân trắng để “thâu góp gió, chủ động rướn thân mình, thể hiện một khả năng sức mạnh đầy dồi dào. Người dân chài ra khơi như mang đi một phần máu thịt quê hương, cánh buồm gắn với con thuyền như “hồn vía” làng quê chở che, neo giữ họ. Kẻ xa quê lâu ngày, thoáng thấy cánh buồm tưởng như bắt gặp hình bóng của miền quê yêu dấu.
Cánh buồm cũng mang chở những khát vọng về bình yên, về ấm no, về một ngày mai tươi sáng... Tế Hanh, với trái tim mẫn cảm của một nhà thơ, đã thấy ở cánh buồm, tâm hồn lộng gió của quê hương mình. Vì thế, Hoài Thanh đã nhận xét: “Người nghe thấy cả những điều không hình sắc, không thanh âm như mảnh hồn làng trên cánh buồm giương, như tiếng hát của hương đồng quyến rũ con đường quê nho nhỏ”. Cái chất muối mặn ấy đã thấm sâu vào khung cảnh làng chài, thấm đượm những cảm xúc thương nhớ của một người con xa quê.
Dân làng chài - tác phẩm điêu khắc bằng thơ
Tám câu thơ tiếp theo là cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về, cá nặng lưới đầy. Tình cảm gắn bó với làng quê khiến nhà thơ cảm nhận được sâu sắc niềm vui đơn sơ, hồn hậu. Trải qua một hành trình lao động miệt mài trên biển, ngày hôm sau đoàn thuyền trở về vào lúc bình minh ló rạng. Một niềm vui, niềm háo hức như lan tỏa trong hai câu thơ:
Nhờ ơn trời biển lặng cá đầy ghe,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng
Trong những năm trước Cách mạng, mọi phương tiện, đồ đạc đang vô cùng thô sơ, luôn phải đương đầu với muôn nỗi hiếm. Nay đoàn thuyền trở về bình an như lời nguyện cầu đến đất trời, đến thần linh. Những con cá thân mình bạc trắng là thành quả của những người lênh đênh trên biển rộng với bao công sức, thậm chí còn có phần nguy hiểm. Người đọc bỗng cảm thấy một niềm hạnh phúc rưng rưng lan tỏa trong dòng thơ rất đỗi bình thường. Giọng thơ đang náo nức, sôi nổi ở đoạn đầu, đến đây bắt đầu lắng xuống, nhịp thơ đi chậm lại. Ngòi bút nhà thơ chuyển sang đặc tả chân dung người đánh cá và con thuyền về bến:
Dân chài lưới làn da ngâm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Người dân chài lưới trở về, mang trong mình làn da ngăm rám nắng. Đó là màu da đồng khỏe khoắn của những người một nắng hai sương, vượt qua khơi xa, ăn sóng nói gió. Đây là khổ thơ đẹp nhất, gợi cảm nhất của bài thơ, giống như một tác phẩm điêu khắc bằng thơ. Từ chất thực và cả chất thơ, đã tạo nên hình tượng cường tráng, săn chắc đã trải qua bao nhiêu bất trắc nay trở về, mang trong mình một hương vị xa xăm. Đó là nồng độ, là hơi thở nồng nàn của dân trai tráng sau mỗi lần đi biển, là vị của xa xăm, của biển cả. Tế Hanh đã sáng tạo vô cùng khi thể hiện cái vốn chỉ cảm nhận bằng thị giác nay có thể cảm nhận bằng xúc giác. Xa xăm là một cảm giác về không gian, gợi lên sự liên tưởng cùng nhữngkhát vọng vươn tới chân trời xa lạ.
Đoạn thơ ngắn gọn nhưng đã cho ta thấy được vẻ đẹp vô cùng của những chàng trai tráng chốn làng chài. Hình tượng thơ, vì thế, như có chiều sâu hơn. Với “làn da ngăm rám nắng” người dân chài làm ta liên tưởng đến bức tượng đồng nâu vạm vỡ bước ra từ miền cổ tích, những chàng Thạch Sanh của thế kỷ XX. Hình ảnh đẹp như tượng nhưng ấm nồng sự sống, bởi.
Nhà thơ đã thi vị hóa một hiện tượng bình thường trong đời thực - nước biển mặn ngấm vào da thịt người dân chài tạo thành mùi vị riêng trên cơ thể họ - để gợi nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn: Chàng đánh cá sau chuyến phiêu du trên biển, lúc trở về còn mang theo hương vị nồng nàn của những vùng biển lạ. Họ đã được thử thách, tôi luyện bằng sóng, bằng gió. Trước biển cả bao la họ hiện lên thật kỳ vĩ, sánh ngang với trời đất. Hình ảnh đó cũng được nhà thơ Huy Cận khắc họa trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá qua hình ảnh ẩn dụ của con thuyền:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Và con thuyền, được hình dung như một cơ thể sống động, cũng mỏi mệt “nằm” im trên bến, lặng lẽ cảm nhận vị mặn mòi của biển ngấm vào cơ thể. Đó không chỉ là vị biển, vị mặn của những giọt mồ hôi mà còn là giọt của thời gian, của năm tháng và cả giọt của sự sống:
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.
Hình ảnh con thuyền trở về nằm nghỉ ngơi trên bãi cát sau một hành trình lao động mệt nhọc đã vẽ nên một khung cảnh thật bình yên. Con thuyền dường như đã thấm mệt trong những trải nghiệm của cuộc đời. Nếu như trong bài thơ Bến đò xuân đầu trại của Nguyễn Trãi, con thuyền đã nằm đó tự bao giờ, gối đầu lên bãi suy tư về cuộc đời:
Con đò gối bãi suốt ngày ngơi
Trong thơ Tế Hanh con thuyền nghỉ ngơi là để bắt đầu cho một hành trình mới. Tác giả đã nhân hóa con thuyền bằng nhiều động từ như im, mỏi nằm để biến con thuyền thành một thực thể sống động, có đời sống riêng. Từ sự quan sát và suy ngẫm của người con miền biển, nhà thơ đã phối hợp tài tình hai hiện tượng: Nước biển mặn ngấm sâu vào vỏ gỗ của con thuyền ngâm nước lâu ngày, tiếng tí tách rạn nứt của lòng thuyền ngấm mặn khi phơi mình trên bờ cát... Bao nhiêu tài hoa của nhà thơ như đã dồn tụ ở bốn câu thơ đặc sắc này. Không phải là người con làng chài thì không thể thành niềm ám gợi bâng khuâng như thế! Hơn nữa, đây lại là nỗi nhớ quê hương của một chàng trai 19 tuổi:
Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước, xanh, cá hạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá.
Thì ra, những cảnh đẹp ấy, những đặc trưng của làng chài ven biển ấy bấy nay là trong nỗi niềm tưởng nhớ của nhà thơ. Giờ đây xa cách, nỗi lòng nhà thơ luôn tưởng nhớ. Lối ngắt câu làm 3 nhịp: Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôinhư những tình cảm nghẹn ngào, nỗi nhớ đau đáu trong trái tim của Tế Hanh. Bài thơ kết thúc với lời nghẹn ngào của tác giả nhưng dư vị của nỗi nhớ quê hương vẫn còn đó, những câu ca ngân nga về chốn làng chài, những tông màu đẹp đẽ của bức tranh vùng biển vẫn mãi còn. Để rồi, mãi về sau, khi trở thành một người lính cách xa cả ngàn km, tâm hồn tha thiết, thành thực ấy vẫn thấm vào lời thơ câu chữ mà người đọc vẫn không thể nào quên được:
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến
Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển
Vẫn trở về lưu luyến bên sông.
(Nhớ con sông quê hương – 1956)