Trong những năm chiến tranh, quân và dân vùng “đất thép” Vĩnh Linh (Quảng Trị) đã thiết lập hệ thống địa đạo Vịnh Mốc dài gần 1.000m để sinh tồn, bám đất, bám làng chiến đấu. Từ đây, đã có 17 đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời trong lòng đất, giữa thời điểm bom đạn rất ác liệt.
Những người con “đất thép”
Gần 60 năm trôi qua kể từ ngày cất tiếng khóc chào đời ở lòng địa đạo Vịnh Mốc, những người con năm xưa đã ngấp nghé tuổi lục tuần, đều đã lên chức ông, bà. Nhưng mỗi khi nhắc đến kỷ niệm năm xưa, ai cũng trào dâng cảm xúc, nước mắt rưng rưng.
Bà Hồ Thị Hường (57 tuổi, trú tại thôn Vịnh Mốc, xã Kim Thạch, huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị), một trong 17 “đứa trẻ” được sinh ra ở địa đạo Vịnh Mốc năm xưa cho biết: Năm 1967, ở một căn hầm nhỏ trong lòng địa đạo, bà Hường cất tiếng khóc chào đời. Trong điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt như vậy, phía trên mặt đất bom đạn gầm rú ác liệt, nhưng bên trong lòng đất, sự sống vẫn nảy mầm. Đó là một kỳ tích vượt xa sức tưởng tượng của nhiều người.
Bà Hường nhớ lại: Ba mẹ tôi sinh được tất cả 6 người con. Tôi là con thứ 3 được mẹ chuyển dạ sinh trong lòng địa đạo. Ba mẹ tôi thường kể, trong địa đạo hồi ấy, mỗi gia đình được bố trí một khoảng trống khoét âm vào vách lối đi nhỏ hẹp để ở và sinh hoạt. Ở hầm thiếu thốn đủ bề, từ nước uống đến cơm ăn, áo mặc.
“Nghe kể lại những năm tháng gian khổ cùng cực đấy, tôi rất thương và thầm biết ơn mẹ đã mang nặng đẻ đau, cùng cha nuôi tôi khôn lớn. Tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và tự hào vì mình được sinh ra trong điều kiện đặc biệt như vậy”, bà Hường xúc động.
Ngoài bà Hường, 16 người còn lại sinh ra ở địa đạo Vịnh Mốc được đặt tên là Hiền, Thành, Dữ, An, Thiện, Thương, Thủy... Bao nhiêu năm trôi qua, mặc dù bận bịu với công việc mưu sinh, nhưng thỉnh thoảng bà Hường và các chị em ở gần địa đạo Vịnh Mốc vẫn trở về căn hầm cũ, nơi mình đã sinh ra năm xưa để hồi tưởng quá khứ.
Đã hơn nửa thế kỷ, bà Hồ Thị Dữ luôn nhớ đến câu chuyện khó quên khi mẹ sinh ra mình. “Mẹ tôi kể lại rằng, khi mẹ sinh tôi trúng vào mùa mưa. Khi đó sinh hoạt ở tầng gần với mặt đất nên nước mưa thấm xuống phải lấy nilon để che.
Bên dưới lối đi bị đọng nước, do lội hàng ngày nên chân bị sưng lên. Trong địa đạo chật chội phải nằm sát nhau, chỗ nằm thì ẩm thấp. Bên trong địa đạo không có ánh sáng, phải thắp đèn dầu. Mỗi lần kể lại câu chuyển ấy mẹ tôi đều khóc”, bà Dữ cho hay.
Ngược dòng ký ức, bà Hồ Thị Thiện chia sẻ, khi mẹ sinh bà được một thời gian thì ba mất. Từ đó, một mình mẹ phải đương đầu với khó khăn, bom đạn chiến tranh để nuôi 4 người con khôn lớn.
“Mẹ tôi bảo, những ngày tháng sống trong địa đạo vô cùng gian truân. Thời điểm đó, người phụ nữ nào chuyển dạ sinh con mà may mắn lắm mới có bông băng, còn không có thì chỉ lấy áo bọc lại cho con khô ráo. Khi sinh ra phải cắt cuống rốn nhưng có lúc không có dao kéo, bất đắc dĩ phải lấy cật tre mà cắt vì nó rất sắc”, bà Thiện kể.
Ông Hồ Văn Triêm (88 tuổi, trú tại thôn Vịnh Mốc, xã Kim Thạch, huyện Vĩnh Linh) là một trong những nhân chứng hiếm hoi thời kỳ đó cho biết, trong số những người con được sinh ra ở địa đạo Vịnh Mốc, hiện còn 7 người bám đất sinh sống ở quê hương, 4 người đã mất, số còn lại đi làm ăn xa. Cách đây gần 20 năm, chính quyền địa phương có tổ chức cuộc gặp mặt có đầy đủ 17 người được sinh ra ở địa đạo.
Trở dạ sinh con trong thiếu thốn
Nhớ về lần “vượt cạn” có một không hai gần 60 năm trước, bà Trần Thị Nghiên (86 tuổi, ở thôn Vịnh Mốc, xã Kim Thạch) vẫn chưa thể nào quên. Bà Nghiên là một trong số những người phụ nữ sinh con trong thời gian sống dưới địa đạo còn sống đến thời điểm này.
Bà Nghiên cho biết, đó là những ngày tháng vô cùng gian khổ. Bên trên mặt đất bom đạn kẻ thù dội xuống ác liệt, trong địa đạo thì chật chội, tăm tối nhưng kỳ diệu thay, sự sống vẫn được duy trì.
“Trong địa đạo chật chội, tối tăm, thiếu thốn đủ thứ. Lúc chuyển dạ sinh Hường có một nữ hộ sinh hỗ trợ. Sinh con xong thì chỉ lấy dao cắt rốn chứ không có thiết bị y tế, bông băng gì cả. Còn trẻ sơ sinh thì lấy áo cũ của mình mà quấn cho khô.
Phụ nữ mới sinh nhưng bữa no, bữa đói, không có gì để bồi dưỡng, chỉ có khoai trộn sắn để ăn qua bữa. Còn con nhỏ thì ban đầu bú sữa, sau thì mẹ giã nhuyễn khoai sắn rồi đút cho ăn”, bà Nghiên nhớ lại.
Thời điểm này bom đạn đánh phá vùng Vĩnh Linh rất ác liệt, trên mặt đất bom dội thường xuyên. Những khi bom đạn ngừng rơi, người dân mới dám lên mặt đất, phát hiện máy bay ném bom thì theo lối giao thông hào để chạy xuống.
Nhờ có địa đạo, người dân nơi đây tránh được nguy hiểm. Đối với việc ăn uống, sinh hoạt cũng khá vất vả, người dân chủ yếu nấu một bữa rồi ăn cả ngày, nhưng chỉ có khoai và sắn chứ cơm gạo không đủ.
Sau khi sinh và nuôi con trong hầm hơn một tháng, những phụ nữ mới sinh như bà Nghiên được lệnh sơ tán ra vùng giải phóng để đảm bảo an toàn.
Bà Nghiên tâm sự: “Sau này con khôn lớn, tôi cũng thường kể cho các con nghe về cuộc sống khó khăn, gian khổ thời chiến tranh. Bây giờ hòa bình rồi, cuộc sống no đủ, muốn thứ gì cũng có, chứ ngày trước vất vả trăm bề, nhưng luôn tràn đầy quyết tâm chiến đấu để đánh thắng giặc”.
Kỳ tích trong lòng đất
Địa đạo Vịnh Mốc là công trình kiến trúc kỳ vĩ dưới lòng đất, ra đời trong kháng chiến. Bằng ý chí gan dạ, kiên cường và nghị lực phi thường, quân và dân vùng “đất thép” Vĩnh Linh đã thiết lập hệ thống địa đạo để sống và chiến đấu với kẻ thù.
Ông Lê Xuân Vy, Đồn trưởng Đồn Công an vũ trang 140 được xem là “kiến trúc sư” của công trình địa đạo Vịnh Mốc. Thực tế trước đó cho thấy, việc đào hầm chữ A, chữ U đều không phát huy được hiệu quả do sức công phá của bom đạn quá lớn.
Do đó, sau khi khảo sát, ông Lê Xuân Vy và Ban chỉ huy Đồn đã hướng dẫn đào địa đạo Vịnh Mốc theo hướng Đông - Tây vì nếu đối phương ném bom từ biển vào có thể chỉ phá được một đoạn ngắn hầm phía Đông, còn phía Tây nằm sâu trong đất liền sẽ an toàn.
Toàn bộ đường hầm địa đạo Vịnh Mốc được chia thành 3 tầng và được nối thông với nhau qua trục chính dài 870m. Chiều dài tổng thể của làng hầm là 1.701m, gồm có 13 cửa ra vào địa đạo (trong đó có 6 cửa được thông lên đồi, 7 cửa thông ra hướng biển) và 3 giếng thông hơi. Tầng một sâu cách mặt đất từ 8 - 10m; tầng 2 sâu cách mặt đất từ 12 - 15m; tầng 3 sâu 22 - 23m.
Đường hầm địa đạo có dạng hình vòm, chiều cao từ 1,2 x 1,8m; dọc hai bên đường hầm người ta cho khoét sâu vào bên trong để tạo ra các ô nhỏ (căn hộ gia đình) đủ chỗ cho từ 2 - 4 người có thể sinh hoạt trong đó.
Ngoài ra trong lòng địa đạo Vịnh Mốc còn có các công trình khác như ở trung tâm của địa đạo có hội trường với sức chứa từ 50 - 60 người làm nơi hội họp, sinh hoạt, xem phim, biểu diễn văn nghệ; bảng tin, nhà hộ sinh, 3 giếng nước để sinh hoạt, nhà vệ sinh, trạm phẫu thuật, bếp nấu ăn (bếp Hoàng Cầm), kho chứa lương thực, nơi đặt máy điện thoại…
Những người dân tham gia đào địa đạo những năm kháng chiến phần lớn đã “đi vào lòng đất”, số còn lại tuổi cũng đã cao. Ông Hồ Văn Triêm là một trong những nhân chứng tham gia đào địa đạo Vịnh Mốc. Thời kỳ đó, ông Triêm là Xã đội phó Vĩnh Thạch (nay là xã Kim Thạch, huyện Vĩnh Linh), trực tiếp chỉ đạo người dân phối hợp với lực lượng vũ trang đào địa đạo.
Theo ông Hồ Văn Triêm, trước sự đánh phá tàn khốc của không quân và pháo binh Mỹ, làng Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch bị tàn phá nặng nề. Thực hiện chủ trương của Khu ủy Vĩnh Linh thời kỳ đó, với tinh thần “một tấc không đi, một ly không rời”, quân và dân Vĩnh Linh đã chuyển cuộc sống từ mặt đất xuống lòng đất, kiến tạo một hệ thống làng hầm đồ sộ, độc đáo nhằm bám đất, bám làng chiến đấu.
Khoảng tháng 7/1965, các chiến sĩ Đồn Công an vũ trang 140 (đóng tại thôn Vịnh Mốc, xã Vĩnh Thạch), nhân dân Vịnh Mốc, Sơn Hạ đã chọn quả đồi sát mép biển, nằm ở phía Nam làng Vịnh Mốc, bổ nhát cuốc đầu tiên để lập nên làng hầm Vịnh Mốc kỳ vĩ này. Làng địa đạo Vịnh Mốc nằm trong một quả đồi đất đỏ bazan trên bờ biển, cách bãi tắm Cửa Tùng 7km về phía Bắc, cách đảo Cồn Cỏ 30km về phía Tây.
Với 18.000 ngày công gian khổ dưới “mưa bom, bão đạn”, nhân dân xã Vĩnh Thạch và lực lượng vũ trang đã đào và vận chuyển hơn 6.000m3 đất đá, tạo nên địa đạo Vịnh Mốc.
“Mọi người đều góp sức để đào địa đạo, nam giới thì đào đất, phụ nữ gánh đất đổ ra biển, các cụ phụ lão có nhiệm vụ ngụy trang những chỗ đất mới bằng lá cây để tránh bị địch phát hiện, hoặc chẻ tre đan sọt để đựng đất. Ban ngày thì đào đất trong địa đạo, đêm đến mới vận chuyển đất đổ ra biển”, ông Triêm nhớ lại.
Trong gần 2.000 ngày đêm tồn tại dưới lòng đất, không một ai bị thương tích đã minh chứng cho sự kỳ diệu của công trình huyền thoại này. Người dân nơi đây đã thích ứng với cuộc sống khó khăn, gian khổ để tiếp tục chiến đấu với quân thù.
Trong chiến tranh, để tồn tại, chiến đấu, Đảng ủy khu vực Vĩnh Linh đưa ra chủ trương quân sự hóa toàn dân, mỗi làng xã là mỗi pháo đài chiến đấu. Tính từ cuối năm 1965 đến năm 1968 (theo thống kê chưa đầy đủ), toàn huyện Vĩnh Linh có 114 địa đạo với tổng chiều dài hơn 40km, hệ thống giao thông hào hơn 2.000km và hàng trăm tiểu đạo khác, trở thành những “làng hầm” thể hiện ý chí “một tấc không đi, một ly không rời” bám trụ chiến đấu bảo vệ quê hương và giữ thông mạch máu ra tiền tuyến. Địa đạo Vịnh Mốc và hệ thống làng hầm Vĩnh Linh phân bố khắp 15/22 xã, thị trấn của huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị.