Dẫu đã 95 tuổi, ông Đỗ Hằng - Cán bộ tiền khởi nghĩa, ở phường Vĩnh Trung (Thanh Khê, Đà Nẵng) vẫn còn nhớ như in quãng thời gian gần 20 năm bị địch giam cầm tại Côn Đảo.
Nhân chứng lịch sử
Tham gia cách mạng từ năm 1945, ông Hằng đã trải qua nhiều cương vị lãnh đạo, đến năm 1954 đã là Tỉnh ủy viên tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Sau Hiệp định Giơ -ne-vơ, ông Hằng được phân công ở lại miền Nam, bí mật hoạt động trong lòng địch. Ông bị giặc bắt ngày 4/9/1957 tại thị xã Buôn Mê Thuột và đã chịu bao cực hình tàn khốc của địch cho đến Mùa xuân Đại Thắng 1975.
Vị nhân chứng lịch sử kể: Quân thù đày ải ông qua nhiều nhà lao trong đất liền, rồi đưa ra Côn Đảo, khép vào diện tù chính trị câu lưu (tù không án), tức là bị giam vô thời hạn. Ở nơi địa ngục trần gian, ông vẫn hăng hái tham gia đấu tranh đòi cải thiện đời sống tù nhân, thực hiện đúng Công ước quốc tế đối với tù chính trị, đặc biệt là phong trào chống chào cờ địch.
Ông Hằng còn nhớ rõ, do không chào cờ địch, anh em tù nhân đã bị bọn cai ngục đánh đập dã man, mặt mũi sưng vù, máu chảy đỏ cả quần áo, nhiều người bị ngất xỉu. “Anh em tù chính trị xác định chỉ có một lá cờ Tổ quốc, đó là cờ đỏ sao vàng - lá cờ đã tung bay tại Quảng trường Ba Đình trong ngày 2/9/1945. Lá cờ ấy đã trở thành máu thịt của chúng tôi, nên chúng tôi quyết không chào cờ của bọn tay sai bán nước!”, ông Hằng nhấn mạnh.
Tù chính trị bị tra tấn bằng nhiều cực hình tàn khốc. Nào là tra điện, đốt ngón tay, lấy kèm bấm vào chỗ kín, nào là đi “tàu bay”, “tàu thủy”, nhốt “chuồng cọp”… Vậy mà những con người trong tay không một tấc sắt vẫn trọn lòng kiên trung, son sắt với lý tưởng cách mạng. Dẫu đã có nhiều người chết do bị tra tấn dã man, nhưng anh em luôn xác định sẵn sàng hy sinh, giữ vững khí tiết người cộng sản.
Trường học cách mạng
Ký ức sâu sắc nhất của ông Hằng tại Côn Đảo là việc thành lập và hoạt động của Chi bộ Lê Hồng Phong. Ông là 1 trong 7 đảng viên ở Trại IV, tổ chức thành lập Chi bộ Lê Hồng Phong vào ngày 1/5/1963 và bầu đồng chí Lương Thạnh làm Bí thư chi bộ. Hồi đó, Trại IV có 8 phòng giam với tổng số 498 tù nhân. Chi bộ đề ra chủ trương xây dựng lực lượng nòng cốt trong từng phòng giam, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị.
Đầu tháng 11/1963, nhân sự kiện quân đội Sài Gòn lật đổ Ngô Đình Diệm, Chi bộ Lê Hồng Phong phát động cuộc đấu tranh công khai không hô khẩu hiệu và không chào cờ ngụy. Lúc này, địch thay khẩu hiệu “Ủng hộ Ngô tổng thống” bằng khẩu hiệu “Ủng hộ quân lực Việt Nam Cộng Hòa”.
Trong buổi chào cờ sáng ngày 3/11/1963, chi bộ bố trí các đồng chí Lê Quang Ba, Phan Minh Sáu, Lê Tam và Nguyễn Văn Minh phát biểu yêu sách của tù nhân. Bốn đồng chí thay nhau nói to khi địch chuẩn bị chào cờ với nội dung: Lâu nay, chính quyền Ngô Đình Diệm áp bức, hành hạ, lăng nhục tù nhân, nay Ngô Đình Diệm đã chết, chúng tôi yêu cầu chính quyền mới bãi bỏ việc cưỡng bức chào cờ và hô khẩu hiệu.
Chúng tôi kiên quyết không chào cờ và không hô khẩu hiệu ủng hộ bất cứ ai. Bọn địch xông vào bắt 4 anh đưa đi nhốt “chuồng cọp”, rồi cắt giảm cơm, nước, không cho ra ngoài tắm nắng. Chi bộ liền phát động tuyệt thực và nêu thêm yêu sách: Tù nhân phải được bầu đại diện trại, đại diện từng phòng và đau ốm phải được điều trị.
Ông Hằng và các đồng chí Tô Thành và Lê Quang Ngọc (cùng bị giam ở phòng 7) được Bí thư chi bộ giao nhiệm vụ xây dựng bảng mật mã để trao đổi thống nhất chủ trương giữa các phòng. Ba anh em đã vận dụng kỹ thuật “moóc” trong điện tín, biến âm “tịch - tè” (tức chấm - vạch) thành chữ số để gõ qua tường. Làm xong, các anh công kênh nhau chuyển bảng mật mã qua đầu tường cho phòng bên cạnh. Phòng bên cạnh ghi lại rồi chuyển tiếp... Nhờ sử dụng bảng mật mã này, các chủ trương của chi bộ đã được triển khai thông suốt đến từng phòng, từng đảng viên.
Cuộc tuyệt thực kéo dài đến ngày thứ 3 thì bọn cai ngục chấp nhận các yêu sách của tù nhân. Nhưng chỉ một thời gian ngắn, bọn cai ngục lại trở mặt, không thực hiện các yêu sách. Chi bộ Lê Hồng Phong tiếp tục phát động đấu tranh. Quân thù lại đàn áp dã man. “Anh em tù chính trị lại đổ máu để tô thắm màu cờ Tổ quốc”, ông Hằng nhấn mạnh trong niềm tự hào về những năm tháng đấu tranh biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng.