Hiện nay, rất nhiều thai phụ mắc các bệnh lý kết hợp, trong đó đái tháo đường trong thai kỳ (ĐTĐTK) - bệnh lý nội khoa thường gặp nhất khi có thai.
Theo thống kê của Hiệp hội Sản phụ khoa thế giới (FIGO, 2015), tỷ lệ mắc đái tháo đường trong thai kỳ ngày càng gia tăng, chiếm khoảng 16% trên tổng số các bà mẹ mang thai.
Phụ nữ có thai nên ăn đủ chất, không nên ăn nhiều. Các loại thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa, rau quả tươi… sẽ cung cấp đủ chất dinh dưỡng
BS CKII. Lê Thị Kiều Dung – Trưởng khoa Phụ sản BV ĐH Y Dược TP HCM cho biết: Đái tháo đường (ĐTĐ) là hội chứng liên quan đến rối loạn chuyển hóa chất đường trong cơ thể, dẫn đến tăng lượng đường huyết.
Nguyên nhân là do tuyến tụy không sản xuất hay sản xuất không đủ Insulin, hoặc do tăng các chất đề kháng với Insulin làm giảm tác dụng sinh học của Insulin lên tế bào đích.
Hiện nay, ĐTĐ đang gia tăng nhanh chóng do lối sống ít vận động và tiêu thụ nhiều thức ăn giàu năng lượng như đường, tinh bột và chất béo.
Theo BS Kiều Dung, đái tháo đường trong thai kỳ bệnh lý nội khoa thường gặp nhất khi có thai, thường do thay đổi nội tiết của cơ thể mẹ trong thai kỳ đưa đến tăng đề kháng với Insulin làm cơ thể không thể điều chỉnh được lượng đường trong máu.
Những nguy hiểm của ĐTĐTK đối với thai phụ
Đối với thai phụ, ĐTĐTK có thể đưa đến: Tăng cân quá mức (> 2kg/tháng) gây béo phì (sau sanh rất khó lấy lại vóc dáng thon gọn)
-Đa ối chiếm tỉ lệ khá cao (27 – 30%), lượng ối quá nhiều làm tử cung to nhanh có thể gây rối loạn tuần hoàn và hô hấp cho mẹ.
-Tăng nguy cơ sảy thai, sinh non
-Tăng nguy cơ cao huyết áp, tiền sản giật, sản giật gấp 4 lần
-Nhiễm trùng dễ xảy ra và thường nặng nề hơn, nhất là viêm thận, bể thận
-Chuyển dạ kéo dài, sanh khó, tăng nguy cơ sang chấn và băng huyết sau sanh
-Tỉ lệ mổ lấy thai cao hơn và những nguy cơ do phẫu thuật cũng tăng
-Rối loạn lượng đường trong máu nặng có thể đưa đến hôn mê
Những biến chứng đối với thai nhi
Đối với thai nhi, ĐTĐTK có thể làm gia tăng tỉ lệ dị tật thai nếu bị ĐTĐ từ trước khi có thai mà không được điều trị đúng cách.
-Thai nhi dễ bị rối loạn tăng trưởng (hoặc quá to, hoặc quá nhỏ). Thai to gây sinh khó và sang chấn lúc sinh như trật khớp vai, gãy xương đòn, liệt đám rối thần kinh cánh tay...
-Thai nhi có thể bị chết lưu đột ngột do đường huyết tăng quá cao. Tỉ lệ tử vong chu sinh tăng gấp 2 – 5 lần.
- Bé sơ sinh dễ bị suy hô hấp do phổi chậm trưởng thành khi có tình trạng tăng đề kháng với Insulin.
-Bé sơ sinh dễ bị hạ đường huyết, hạ calci, vàng da nặng và có thể hôn mê.
-Khi lớn lên bé dễ bị béo phì, ĐTĐ, cao huyết áp
Và sau sinh....
BS Kiều Dung nêu rõ: Khoảng 20% ĐTĐTK sẽ bị ĐTĐ thực sự sau sinh. ĐTĐ thực sự có diễn tiến mãn tính suốt phần đời còn lại và là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do: Tổn thương tế bào mạch máu gây xơ vữa động mạch đưa đến cao huyết áp và suy tim; Bệnh mạch vành như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột tử; sa sút trí tuệ, tai biến mạch máu não.
-Bệnh mạch máu chân gây thiếu máu tại chỗ gây loét hoặc hoại tử chi
-Bệnh lý võng mạc do tổn thương các mao mạch ở võng mạc có thể đưa đến mù mắt
-Bệnh lý ở thận như tổn thương vi thể ở cầu thận gây xơ cứng cầu thận và đưa đến suy thận.
-Các biến chứng cấp tính như hôn mê, nhiễm trùng nặng…
Những ai có nguy cơ của ĐTĐTK
-Tiền căn gia đình có người bị đái tháo đường
-Tuổi mẹ khi mang thai > 40 tuổi
-Béo phì (BMI) > 25
-Tiền căn thai kỳ trước bị ĐTĐTK
-Tiền căn sanh con to ≥ 4000 gr
-Tiền sử thai lưu 3 tháng cuối không rõ lý do
-Tiền sử sanh con có dị tật bẩm sinh không tìm được nguyên nhân
-Rối loạn phóng noãn kiểu buồng trứng đa nang
-Sử dụng thuốc như corticosteroids, thuốc kháng virus, hoặc nhiễm HIV
Bác sĩ Kiều Dung khuyến cáo: ĐTĐTK có thể gây nguy hiểm cho mẹ và thai nhi chính vì vậy việc tầm soát ĐTĐTK rất cần thiết. Tất cả phụ nữ có thai đều nên thực hiện nghiệm pháp dung nạp đường huyết (OGTT) uống 75 gram glucose để tầm soát ĐTĐTK.
“Về thời điểm tầm soát ĐTĐTK, nếu thai phụ không có yếu tố nguy cơ, nên thực hiện OGTT từ tuần thứ 24 đến tuần thứ 28 của thai kỳ, không nên thực hiện test muộn hơn tuần thứ 28 của thai kỳ. Nếu thai phụ có yếu tố nguy cơ, thực hiện OGTT ở lần khám thai đầu tiên. Nếu kết quả OGTT bình thường, vẫn phải thực hiện lại OGTT vào tuần thứ 24 đến tuần thứ 28 của thai kỳ”, bs Dung nói.
Về chế độ dinh dưỡng, BS Dung khuyên, khi phụ nữ có thai nên ăn đủ chất, không nên ăn nhiều. Các loại thực phẩm như thịt, cá, trứng, sữa, rau quả tươi… sẽ cung cấp đủ chất dinh dưỡng. Đặc biệt, thai phụ cần hạn chế ăn nhiều đường, tinh bột, chất béo, đặc biệt là không nên uống nhiều nước mía có nguy cơ làm tăng chỉ số đường huyết trong thai kỳ./.