Tấm ảnh lịch sử, từ trái sang phải: Ngụy Khắc Đản (Bồi sứ, nhân vật thứ ba); Phan Thanh Giản (Chánh sứ, người đứng đầu Sứ đoàn); Phạm Phú Thứ (Phó sứ, nhân vật thứ hai) - Ảnh TL do NĐX st
Từ điển Bách khoa Encarta ghi rõ: Kỹ thuật nhiếp ảnh (photographie) do nhà vật lý Pháp Nicéphore Níepce (1765-1833) quê ở Châlon-sur-Chaône cùng với người em là Claude phát minh từ năm 1829, và tiếp sau đó được nghệ sĩ Jacques Daguerre (1787-1851) hoàn thiện song song với William Henry Fox Talbot (1800-1877) - một nhà khoa học Anh và được công bố chính thức vào năm 1839.
Sử sách Việt Nam cũng ghi Đặng Huy Trứ (1825-1874) - một quan lại triều Nguyễn người Thừa Thiên Huế đã đưa kỹ thuật này từ Trung Quốc vào Việt Nam bằng việc mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường tại Hà Nội năm 1869.
Cho đến những năm đầu thập niên sáu mươi thế kỷ 19, dân Việt Nam chưa hề biết nhiếp ảnh là gì. Mãi đến mùa thu năm 1863, vua Tự Đức cử Sứ đoàn Phan Thanh Giản - Phạm Phú Thứ - Ngụy Khắc Đản sang Pháp thương thuyết, lần đầu tiên người Việt Nam biết đến nhiếp ảnh và được cụ Phạm Phú Thứ ghi lại trong Như Tây Sứ Trình Nhật Ký sau đây:
“Ngày mồng bảy (19/9/1863), Hà-bá-lí (tức Aubaret - quan chức của Chính phủ Pháp)báo rằng Quốc trưởng của họ muốn xem ảnh của Sứ bộ, nên quan đại thần của đô thành đã cho người đến báo với các quan sứ sáng mai, mặc phẩm phục sẵn sàng để chụp ảnh đệ trình lên trên”.
Hôm sau, “Ngày mồng tám (20-9-1863)… Giờ Ngọ (11 đến 13 giờ) trời hơi tạnh, chúng tôi lần lược mặc phẩm phục lên nhà lầu lợp kính trong Quán để chụp ảnh (quán nầy có mấy gian trên tầng lầu mà mái và tường đều lợp bằng kính (plaques de verre)để lấy ánh sáng mặt trời. Cách chụp ảnh làm như thế nầy:
“Trước hết, lấy nước thuốc xoa trên một tấm kính rồi đặt tấm kính vào ống kính; sau đó, người được chụp đứng trước ống kính và quay mặt về ống kính; ánh sáng mặt trời lọt vào ống kính làm cho hình người in lên tấm kính, không sai một sợi tóc. Tục người Tây thích chụp ảnh nhất. Phàm những người mới quen biết nhau thì thích có ảnh của người quen; người trên, kẻ dưới đều như vậy vì người ta nói rằng, làm như vậy để tỏ ra không quên nhau.
Từ đó về sau, viên quan nầy nhiều lần đưa thợ mang máy đến quán mời chúng tôi chụp ảnh và chia tặng chúng tôi. Tiền công chụp một tấm ảnh nhỏ là một quan, tấm lớn hơn là bốn, năm quan.” […]
Trong phái đoàn có một vị quan võ người Nam Dương, huyện Thận là ông sơ của bà Nguyễn Thị Cúc - Vợ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh sau nầy.
Gia đình Nguyễn Hữu cho tôi biết trước đây còn giữ được tấm ảnh chụp riêng Nguyễn Hữu Thận bên Tây, nhưng trải qua nhiều trận lũ lụt và chiến tranh tấm ảnh đã bị thất lạc. Rất may là sau nầy tôi đã tìm được. Có thể xem Nguyễn Hữu Thận là người Huế được chụp ảnh đầu tiên.
Phòng Ngự sử Nguyễn Hữu Thận, 30 tuổi, quan võ, Tòng Ngũ phẩm - Ảnh TL
Hiệu ảnh đầu tiên ở Kinh đô Huế năm 1878
Vào trung tuần tháng 3/1874, Sứ đoàn Phan Thanh Giản đem những bức hình chụp bên Tây về Kinh đô Huế làm cho nhiều quan dân háo hức muốn biết người phương Tây đã làm như thế nào mà tài tình đến vậy. Sau đó, triều Nguyễn cho ông Trương Văn Sán sang Tây học nghề chụp ảnh.
Mùa hạ năm Tự Đức thứ 31 (1878) ông Sán về nước và trình bày “tiểu phép chụp ảnh” với bộ Hộ. Bộ Hộ lại tâu lên vua Tự Đức, được nhà vua rất hài lòng.
Nhà vua bèn sai bộ Công làm một nhà riêng bên phải sở Thương Bạc (vị trí ở giữa Nhà hát Hưng Đạo và cửa Thượng Tứ hiện nay) để cho Văn Sán chụp ảnh.
Văn Sán không những chụp ảnh cho vua, cho các ông hoàng bà chúa, mà còn được phép chụp cho cả quan dân bên ngoài. Có thể nói hiệu ảnh Văn Sán sáng lập năm 1878 là hiệu ảnh đầu tiên ở Cố đô Huế (Theo Đại Nam Thực Lục Chính Biên, bản dịch của Viện Sử học, t.34, Nxb KHXH, HN.1976, tr.125)
Ông vua Nguyễn đầu tiên được chụp ảnh
Hiệu ảnh của Trương Văn Sán được vua Tự Đức cho phép “không những chụp ảnh cho vua, cho các ông hoàng bà chúa, mà còn được phép chụp cho cả quan dân bên ngoài”.
Tuy vậy, cho đến nay chúng tôi chưa sưu tập được một tấm ảnh nào có niên đại được chụp sau ngày hiệu ảnh của Trương Văn Sán ra đời (1878).
Riêng trường hợp các ông Phụ chánh đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã rời Huế sau sự kiện thất thủ Kinh đô (7/1885) nay vẫn còn tìm được một vài tấm ảnh của hai ông. Có thể dự đoán những tấm ảnh của hai ông còn được xem trên sách báo ngày nay đã được Trương Văn Sán chụp trước tháng 7/1885.
Còn vua Tự Đức thì cho đến nay được biết nhà vua cho phép Trương Văn Sán mở hiệu ảnh tại Huế nhưng không có một tấm ảnh nào chụp nhà vua cả.
Những hình vua Tự Đức in trong sách và trên báo chí lâu nay đều là ảnh vẽ của người Pháp. Vua Tự Đức cấm đạo Thiên chúa nên có một số họa sĩ phương Tây theo đạo Thiên chúa ghét bèn tưởng tượng ra vẽ hình vua Tự Đức rất dễ sợ.
Sau ngày vua Tự Đức qua đời, các vua Nguyễn lên ngôi thời “Tứ nguyệt tam vương” (từ cuối 1883 đầu 1884) là Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phước thì không thấy có một di ảnh nào.
Trong hồ sơ lưu trữ của Pháp, vua Hiệp Hòa còn lưu lại một tấm tranh vẽ caricature mấy nét chứ không phải ảnh chụp. Ảnh vua Hàm Nghi mà sách báo trước đây đăng tải là tấm ảnh do một người Pháp chụp trộm lúc nhà vua đã bị đày sang Algérie (sau năm 1889).
Qua sử sách của triều Nguyễn, được biết vua Đồng Khánh (1885-1889) là ông vua Nguyễn đầu tiên cho phép thợ ảnh chụp ảnh vua. Sách Đại Nam Thực Lục CB, tập 37 ghi rằng:
Chân dung vua Đồng Khánh - ông vua Nguyễn đầu tiên được chụp ảnh vào đầu năm 1886. Ảnh chụp tại điện Văn Minh . Một bản gởi sang Pháp, một bản treo tại Điện Cần Chánh.
Tấm ảnh nầy chụp vào cuối tháng 12 Ất Dậu nhằm tháng 1/1886. Chụp vào mùa đông xứ Huế, trong điện Văn Minh không đủ ánh sáng, nên tấm ảnh lịch sử của vua Đồng Khánh gởi cho Chính phủ Pháp không rõ lắm.
Vì thế về sau vua Đồng Khánh cho chụp lại, nhà vua mặc đại triều nhưng đầu lại quấn khăn chứ không đội mũ. Tấm ảnh thứ hai nầy rõ hơn và được in trên sách báo Tây lúc đó và cả sau nầy.
Chân dung vua Đồng Khánh - Ông vua Nguyễn đầu tiên được chụp ảnh vào đầu năm 1886. Ảnh do vua Khải Định giữ
Kỹ thuật nhiếp ảnh dưới mắt người đương thời
Về kỹ thuật nhiếp ảnh, có lẽ cụ Phạm Phú Thứ là người Việt Nam đầu tiên đề cập đến trong Như Tây Sứ Trình Nhật Ký như vừa trích dẫn đoạn 1 trên đây (1863). Sáu năm sau (1869), cụ Đặng Huy Trứ sang Trung Quốc mua máy móc về mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường ở phố Thanh Hà, Hà Nội.
Theo cụ Đặng thì: “Đầu tiên là từ người nước Anh, chứ không phải là đồng đảng của bọn Pháp, sau truyền vào nước nhà Thanh là nước có bang giao với nước Đại Nam ta” (Theo "Con người và tác phẩm", Nxb TP HCM, 1990, tr.499).
Có lẽ cụ Đặng chưa có điều kiện tra cứu lịch sử ra đời của kỹ thuật nhiếp ảnh và ngại đề cập đến nước Pháp - kẻ thù của nước Đại Nam lúc ấy nên cụ đã viết sai với tài liệu lịch sử nhiếp ảnh thế giới.
Như đã viết ở trên, kỹ thuật nhiếp ảnh do nhà vật lý Pháp Nicéphore Níepce (1765-1833) quê ở Châlon-sur-Chaône cùng với người em là Claude phát minh vào năm 1829 và tiếp sau đó được nghệ sĩ Jacques Daguerre (1787-1851) hoàn thiện.
Những người này đều là người Pháp và phát minh kỹ thuật nhiếp ảnh trên đất Pháp. Về sau có một người Anh tên là William Henry Fox Talbot (1800-1877), trẻ hơn nhưng hoạt động hoàn chĩnh kỹ thuật nhiếp ảnh đồng thời với Jacques Daguerre.
Có lẽ vào năm 1869 kỹ thuật nhiếp ảnh du nhập vào Trung Quốc từ Anh Quốc nên cụ Đặng cho đó là một phát minh của người Anh chứ không phải của người Pháp chăng?
Chín năm sau ngày Cảm Hiếu Đường khai trương (1869-1878), vua Tự Đức cho ông Trương Văn Sán mở hiệu ảnh tại Huế. Khác với cụ Đặng Huy Trứ, ông Trương Văn Sán được sang Pháp học nghề nhiếp ảnh chính thức, thu thập được căn bản kỹ thuật nhiếp ảnh cho nên khi về nước được bộ Hộ yêu cầu, ông đã trình bày “tiểu phép chụp ảnh” một cách cặn kẽ và được sử nhà Nguyễn ghi lại như sau:
Như đã đề cập trên, năm 1869 Đặng Huy Trứ đã mở hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường tại Hà Nội nhưng rất tiếc chưa tìm được đoạn văn nào họ Đặng trình bày về “tiểu phép chụp ảnh” cả.
wĐoạn trích trong đoạn 3 nầy của Trương Văn Sán, cho đến nay được xem là tư liệu quý nhất mở đầu cho lịch sử phát triển nghề nhiếp ảnh ở nước ta.