Nguồn lực hiện đại hóa toàn diện giáo dục

GD&TĐ - Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035 (Chương trình) nếu được phê duyệt, ngành Giáo dục sẽ có nguồn lực hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân...

Cô và trò Trường Tiểu học Thịnh Liệt (phường Hoàng Mai, Hà Nội). Ảnh: Lê Cường
Cô và trò Trường Tiểu học Thịnh Liệt (phường Hoàng Mai, Hà Nội). Ảnh: Lê Cường

Sáng 25/11, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn đã trình bày trước Quốc hội Tờ trình của Chính phủ về Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng GD-ĐT giai đoạn 2026 - 2035 (Chương trình). Nếu được phê duyệt, ngành Giáo dục sẽ có nguồn lực hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục quốc dân, tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng giáo dục - đào tạo và bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục.

Gói đầu tư mang tính đột phá

Chương trình được xây dựng nhằm hiện thực hóa chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói chung và ngành Giáo dục nói riêng; đặc biệt tập trung phát huy những thành tựu, kết quả đạt được trong thời gian qua và trọng tâm vào những vấn đề cấp thiết còn nhiều khó khăn, vướng mắc, cần hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước để tạo đột phá.

Thời gian thực hiện Chương trình trong 10 năm, từ năm 2026 đến năm 2035, chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 2026 - 2030, tập trung giải quyết các vấn đề hạn chế, thách thức đặt ra trong thời gian qua; thực hiện và hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành một phần một số mục tiêu chủ yếu cần hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước được đề ra đến năm 2030 tại Nghị quyết số 71-NQ/TW và các quy định có liên quan.

Giai đoạn 2031 - 2035, tiếp tục xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra đến 2035. Các mục tiêu cụ thể nhằm chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện hệ thống GD-ĐT, tạo bước chuyển căn bản, mạnh mẽ về chất lượng GD-ĐT cũng được đưa ra. Tổng các nguồn lực huy động để thực hiện Chương trình giai đoạn 2026 - 2035 khoảng 580.133 tỷ đồng.

PGS.TS Trần Thành Nam - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, Chương trình này đánh dấu sự chuyển mình sang một nền “giáo dục ưu việt, hiện đại, công bằng và chất lượng” phục vụ cho sự vươn mình của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức. Điều này thể hiện quyết tâm hiện thực hóa những chỉ đạo chiến lược của Nghị quyết 71-NQ/TW của Bộ Chính trị, tạo sức bật để chúng ta thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình.

Một trong những nội dung trọng yếu trong Chương trình là chuẩn hóa 100% cơ sở vật chất giáo dục mầm non, phổ thông đến 2035, giải quyết triệt để tình trạng 3.000 phòng học nhờ/mượn và 2.500 phòng học trong trường hợp khẩn cấp hiện nay. Đây không chỉ là xây dựng cơ sở vật chất mà là tái cấu trúc không gian học tập theo mô hình STEM/STEAM, loại bỏ tư duy “bao cấp” trong phân bổ nguồn lực.

Điểm trọng tâm thứ hai là chuyển đổi số toàn diện với mục tiêu 95% nhà giáo, 70% học sinh được đào tạo AI và công nghệ giáo dục đến 2030. Điều này sẽ tạo ra hệ thống “giáo dục thích ứng”, trong đó AI đóng vai trò trợ giảng theo chuẩn mực đạo đức và trách nhiệm được con người đặt ra, giải phóng giáo viên cho nhiệm vụ định hướng, phát triển tư duy sáng tạo.

Đồng quan điểm về gói đầu tư mang tính đột phá, PGS.TS Lê Hoàng Anh - Trưởng Bộ môn Công nghệ Tài chính, Trường Đại học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh, khẳng định, gói đầu tư 580.133 tỷ đồng trong 10 năm hoàn toàn hợp lý trong bối cảnh ngân sách hiện nay.

Ông dẫn chứng, ngân sách dành cho giáo dục dự kiến đạt 630 nghìn tỷ đồng vào năm 2026, chiếm tối thiểu 20% tổng chi ngân sách Nhà nước. Về cơ cấu vốn, ông nhận thấy sự phân bổ trách nhiệm tương đối hợp lý giữa các cấp, với ngân sách Trung ương chiếm 60,2%, ngân sách địa phương 19,9% và vốn đối ứng của các cơ sở giáo dục 15,4%.

PGS.TS Lê Hoàng Anh cho biết thêm, gói đầu tư được Chính phủ chia thành 5 dự án, trong đó dự án bảo đảm cơ sở vật chất giáo dục phổ thông có tổng vốn 202 nghìn tỷ đồng; dự án hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp có tổng vốn gần 60 nghìn tỷ đồng; và dự án tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục đại học có tổng vốn 277 nghìn tỷ đồng. Riêng dự án phát triển đội ngũ nhà giáo chỉ có tổng vốn đầu tư 38.800 tỷ đồng.

nguon-luc-hien-dai-hoa-toan-dien-giao-duc-1.jpg
Giờ học tại Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi (TP Hải Phòng). Ảnh: NTCC

Rà soát kỹ cơ cấu chi phí, xác định rõ nội dung đầu tư

Bà Trần Thị Thúy Hà - Trưởng phòng Văn hóa - Xã hội UBND phường Hòa Xuân (TP Đà Nẵng) cho rằng, đầu tư công phản ánh mức độ quan tâm của Nhà nước đến cơ sở hạ tầng, từ đó tạo nền tảng cho phát triển văn hóa, kinh tế và giáo dục.

Trong giáo dục, nguồn vốn lớn từ ngân sách Nhà nước để xây dựng, nâng cấp trường lớp, trang thiết bị không chỉ thể hiện sự quan tâm của hệ thống mà còn giúp giảm chênh lệch vùng miền, bảo đảm công bằng xã hội và nâng cao hiệu quả dạy học. “Nếu đầu tư công được quan tâm đúng mức, cơ sở hạ tầng được bảo đảm thì chất lượng giáo dục sẽ cải thiện rõ rệt”, bà Hà khẳng định.

Tuy nhiên, cần có sự cân đối trong cơ cấu đầu tư công và chi thường xuyên cho giáo dục. Theo dự thảo, chi thường xuyên cho giáo dục chỉ chiếm 12% ở giai đoạn đầu và 7,5% ở giai đoạn sau. Trong khi đó, chi thường xuyên không chỉ bao gồm chi lương mà còn chi cho bảo trì, bảo dưỡng, học liệu, trang thiết bị, hoạt động chuyên môn và đào tạo, bồi dưỡng giáo viên. Ở các nước khác, chi thường xuyên đạt 75 - 80% tổng ngân sách giáo dục. “Với tỷ lệ hiện nay, việc đào tạo giáo viên sử dụng thiết bị hiện đại trong trường học là rất khó thực hiện”, bà cảnh báo.

Theo bà Trần Thị Thúy Hà, cần phải làm rõ tiêu chí của chương trình xây dựng “trường học hiện đại”. Khái niệm hiện nay vẫn mơ hồ, chưa làm rõ trường học hiện đại bao gồm cơ sở vật chất, con người, chương trình, tài liệu, học liệu và trang thiết bị. Và để xây dựng chương trình này, cần phải rà soát, khớp nối các quy định trước đó về mua sắm, trang bị cơ sở vật chất.

Đơn cử, các trường mầm non hiện nay phải trang bị học cụ, đồ chơi, thiết bị theo Thông tư 02 dù đã quá lạc hậu, không phù hợp với nhu cầu dạy - học hiện đại. Nếu thiếu cơ sở pháp lý, các trường sẽ không thể trang bị phù hợp, đồng nghĩa với việc đội ngũ giáo viên cũng khó tiếp cận chuẩn hiện đại.

Trong đầu tư xây dựng trường, lớp, theo bà Trần Thị Thúy Hà, đất đai cũng là vấn đề quan trọng, đặc biệt ở các đô thị. Tại phường Hòa Xuân, các trường hiện đã quá tải, nhưng quỹ đất để xây trường mới gần như không còn.

Bà Hà đặt câu hỏi: Trong gói đầu tư có tính đến đất dành cho giáo dục hay chỉ tập trung xây dựng cơ sở vật chất? Ngay cả đầu tư xây dựng trường học ở miền núi thì vấn đề cũng không đơn giản, vì nhiều khu vực có nhiều điểm trường lẻ. “Nếu chỉ xây một trường lớn tại điểm chính, học sinh ở các điểm lẻ sẽ không được hưởng lợi. Điều quan trọng làm sao trẻ đi học gần nhất và thuận lợi nhất”, bà Hà phân tích.

Bà Trần Thị Thúy Hà cho rằng, cần xem xét sự không đồng bộ giữa tiêu chí trường chuẩn quốc gia và mục tiêu xây dựng trường học hiện đại. Hiện nay, tỷ lệ trường chuẩn ở khu vực trung tâm, các đô thị thấp hơn so với vùng ven, cho thấy cách phân bổ chưa phản ánh nhu cầu thực tế. Thêm vào đó, việc xác định mức đầu tư cho từng đơn vị và vùng miền cần rõ ràng, cần căn cứ vào tính đặc thù và nhu cầu thực tế của từng địa phương.

nguon-luc-hien-dai-hoa-toan-dien-giao-duc-3.jpg
Học sinh Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và THCS Trà Nam (xã Trà Linh, TP Đà Nẵng) tập huấn tổ chức trò chơi lớn. Ảnh: Ánh Ngọc

Vì vậy, theo Trưởng phòng Văn hóa - Xã hội phường Hòa Xuân, đầu tư công cho giáo dục là cần thiết, mang ý nghĩa về cơ sở hạ tầng và công bằng xã hội, nhưng cần rà soát kỹ cơ cấu chi phí, xác định rõ nội dung đầu tư, cập nhật quy định về thiết bị và mua sắm, đồng thời tính đến điều kiện đặc thù của từng vùng miền. Chỉ khi làm rõ những vấn đề này, gói đầu tư mới thật sự hiệu quả và góp phần nâng cao chất lượng giáo dục theo mục tiêu của quốc gia.

Trong khi đó, ông Võ Đăng Chín - Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam (xã Trà Linh, TP Đà Nẵng) cho rằng, với các khu vực miền núi, cần nhân rộng mô hình nội trú liên cấp mà Nhà nước đang tập trung xây dựng ở các xã biên giới.

“Để các điểm trường thôn dạy hai buổi trên ngày với một giáo viên, không có giáo viên các môn chuyên như Nhạc, Ngoại ngữ, Thể dục, Tin học…, nên học sinh không phát triển được toàn diện về văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao. Các em học xong về nhà không tiếp cận được bạn bè, không học nhóm, làm cho việc tăng cường tiếng Việt không thường xuyên”, ông Võ Đăng Chín phân tích.

Mỗi điểm trường thôn chỉ khoảng 20 học sinh nhưng phải có ít nhất một giáo viên đứng lớp. Trong khi đó, nếu chuyển học sinh về học tại điểm trường chính, nhà trường không phải phân tán nguồn lực mà có điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và bảo đảm học sinh được công bằng trong hưởng thụ.

Ngoài ra, trong mua sắm thiết bị, đồ dùng dạy học, cũng cần thay đổi quan điểm đầu tư, trong điều kiện ngành GD&ĐT chủ trương đầu tư xây dựng trường học thông minh. Các trường học có thể thay thế những thí nghiệm thực tế bằng những thí nghiệm ảo, các mô hình mô phỏng…

Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo vào giảng dạy, cần đầu tư hơn nữa trong tập huấn giáo viên, tránh rơi vào trình trạng giáo viên lạm dụng trình chiếu thay cho viết bảng; cần có cơ chế đánh giá và động lực rõ ràng để phát triển nghề nghiệp.

nguon-luc-hien-dai-hoa-toan-dien-giao-duc-2.jpg
Học sinh trải nghiệm môi trường học tập tại Trường Đại học Quốc tế (Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh). Ảnh: Bùi Diễn

Sử dụng hiệu quả và giám sát chặt chẽ nguồn lực

Từ góc độ chuyên môn, PGS.TS Trần Hoài An - Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng Học viện Hàng không Việt Nam (TP Hồ Chí Minh) cho rằng, tổng vốn hơn 580 nghìn tỷ đồng trong 10 năm là khoản đầu tư khổng lồ, gấp nhiều lần các chương trình trước đây, thể hiện sự ưu tiên cao của Chính phủ đối với giáo dục và đào tạo. Tuy nhiên, ông nhận định, tính khả thi và hiệu quả tổng thể của khoản đầu tư này sẽ phụ thuộc đáng kể vào cơ cấu vốn, phương thức phân bổ và cơ chế thực hiện.

Về cơ cấu vốn, dù nguồn vốn ngân sách Trung ương chiếm chủ đạo (khoảng 60,2%) giúp giảm áp lực cho ngân sách địa phương, PGS.TS Trần Hoài An chỉ ra hai thách thức lớn.

Thứ nhất, việc bảo đảm nguồn vốn hơn 580 nghìn tỷ đồng từ tổng chi tiêu công trong 10 năm là thách thức không nhỏ, trong khi thực tế tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho giáo dục tại Việt Nam thường chưa đạt mức tối thiểu 20% tổng chi ngân sách theo quy định của Luật Giáo dục.

Thứ hai, cơ chế vốn đối ứng yêu cầu các trường đại học và cơ sở dạy nghề huy động tới hàng chục nghìn tỷ đồng (Giai đoạn 1: 20.429 tỷ đồng; Giai đoạn 2: 68.645 tỷ đồng) được xem là khó khả thi đối với nhiều trường công lập.

Về phân bổ vốn, ông phân tích, giáo dục đại học nhận phần vốn lớn nhất với 227.000 tỷ đồng (chiếm gần 47,75% tổng vốn trong 10 năm), nhằm mục tiêu nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm để đạt trình độ ngang tầm khu vực và thế giới, tạo đột phá về khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Sự dịch chuyển chiến lược này cho thấy tư duy đầu tư có lộ trình và trọng tâm, với Giai đoạn 2 (2031 - 2035) chuyển trọng tâm sang giáo dục đại học, khi tỷ trọng tăng vọt lên 52,47% tổng vốn của giai đoạn.

Tuy nhiên, PGS.TS Trần Hoài An bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về sự mất cân đối trong cơ cấu đầu tư: Vốn đầu tư công (xây dựng, nâng cấp hạ tầng, mua sắm thiết bị) chiếm tỷ trọng quá cao, lần lượt là 83,9% và 90,3% tổng vốn trong hai giai đoạn, dẫn đến nguy cơ dàn trải và lãng phí. Trong khi đó, kinh phí chi thường xuyên (đầu tư cho con người như lương, tập huấn, nghiên cứu cơ bản) chỉ chiếm 10,9% và 5,5%, cho thấy sự chưa tương xứng trong đầu tư cho “chất” (con người) so với “lượng” (cơ sở vật chất).

Liên quan đến tỷ lệ ngân sách đầu tư, theo đề xuất, ngân sách Trung ương chiếm 60,2%. PGS.TS Trần Thành Nam cho rằng, điều này thể hiện vai trò định hướng và dẫn dắt của Chính phủ cho một chương trình mang tính quốc gia.

Ông đề xuất, thay vì rải đều, ngân sách Trung ương phải tập trung vào 20% dự án mang lại 80% tác động. Tỷ lệ ngân sách địa phương cần nghiên cứu để có các cơ chế rõ ràng nếu không sẽ tạo ra khoảng cách trong chất lượng giáo dục và đùn đẩy trách nhiệm.

Đồng thời, cần có những quy định tối thiếu về tỷ lệ % ngân sách địa phương chi cho giáo dục nếu địa phương muốn được hưởng vốn từ ngân sách Nhà nước. Với tỷ lệ vốn đối ứng của các trường đại học, cao đẳng cần có nghiên cứu để phân nhóm, bảo đảm không vượt quá khả năng tài chính của các trường thuộc các nhóm ngành khác nhau.

Cần khuyến khích các cơ chế PPP thực chất. Các nguồn vốn khác cần được quản lý dưới dạng Quỹ Đổi mới giáo dục Việt Nam trên cơ sở cổ phần hóa một phần tài sản giáo dục, phát hành trái phiếu giáo dục; huy động các nguồn lực tài chính quốc tế ưu đãi, các nguồn vốn ODA.

“Ngoài ra, điểm mù lớn nhất là cần lập ma trận rủi ro trùng lặp giữa các dự án của chương trình với các chương trình quốc gia khác như Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng miền núi, dân tộc thiểu số; hay Chương trình Chuyển đổi số Quốc gia đang được triển khai. Phải có đầu mối chịu trách nhiệm cho việc rà soát trùng lặp để tránh lãng phí.

Nguồn vốn 580.133 tỷ đồng không phải là nhiều nếu so với 3,5% GDP dành cho giáo dục của quốc gia. Nếu chúng ta tận dụng tốt cũng sẽ giống như việc nền kinh tế tận dụng được thời kỳ dân số vàng để phát triển. Khi nguồn lực được tăng cường, vấn đề then chốt là quản lý, sử dụng sao cho hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí.

Nếu xây nhà, mua thiết bị rồi để đó vì thiếu giáo viên có năng lực số, thiếu doanh nghiệp sẵn sàng hợp tác, thiếu văn hóa đổi mới, sự thụ động trong việc vận hành…, giáo dục của chúng ta sẽ chỉ như người khổng lồ nhưng thiếu đi trái tim và linh hồn”, PGS.TS Trần Thành Nam nhấn mạnh.

Để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả bền vững, ông Trần Hoài An nhấn mạnh, Chính phủ cần cân đối lại cơ cấu vốn, tăng tỷ trọng chi thường xuyên (đầu tư cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và nghiên cứu khoa học), đồng thời có cơ chế hỗ trợ tài chính phù hợp cho các trường công lập.

PGS.TS Trần Hoài An đề xuất tăng tỷ trọng kinh phí thường xuyên từ mức 10-15% hiện nay lên tối thiểu 30-40% tổng nguồn vốn, với tỷ lệ lý tưởng trong dài hạn là 60% vốn đầu tư công và 40% chi thường xuyên. Về tiêu chí ưu tiên, vốn đầu tư công cần được phân bổ để giải quyết dứt điểm tình trạng thiếu thốn tại các vùng khó khăn hoặc tập trung cho các dự án trọng điểm, tránh dàn trải.

Việc phân bổ vốn phải gắn với các chỉ số hiệu suất (KPI) cụ thể, có thể đo lường được, đồng thời chuyển từ cơ chế cấp phát sang cơ chế đặt hàng theo kết quả (performance-based funding).

Ông cũng kêu gọi ưu tiên nguồn lực cho các chương trình bồi dưỡng, nâng chuẩn trình độ chuyên môn, đặc biệt năng lực ngoại ngữ và công nghệ thông tin/chuyển đổi số cho giáo viên; tăng định mức chi thường xuyên nhằm nâng cao mức lương cơ bản và phụ cấp cho giáo viên (đề xuất mức phụ cấp từ 70% trở lên) cũng như xây dựng nhà công vụ kiên cố. Cuối cùng, cần tăng cường giám sát độc lập và quy định rõ ràng, định lượng hóa các mục tiêu để tránh tình trạng dàn trải, kém hiệu quả.

Từ góc độ nhà giáo, PGS.TS Lê Hoàng Anh cho rằng cơ cấu phân bổ hiện nay của chương trình còn nghiêng về đầu tư cơ sở vật chất, trong khi chưa dành sự quan tâm tương xứng cho yếu tố quyết định chất lượng giáo dục là đội ngũ nhà giáo.

Ông đặc biệt lưu ý, trong bối cảnh giáo dục của kỷ nguyên số, đội ngũ giảng viên cần được trang bị đầy đủ khả năng thích ứng mới, từ phát triển chương trình đào tạo, đổi mới tư duy và phương pháp giảng dạy, kiểm tra, đánh giá đến thực hiện nghiên cứu khoa học.

Để đầu tư hiệu quả, ông khuyến nghị, đầu tư vào cơ sở vật chất cần đi kèm với cam kết ngân sách bảo trì dài hạn và các chương trình đào tạo đội ngũ giáo viên nhằm khai thác, sử dụng hiệu quả trang thiết bị, tránh tình trạng nhiều trường học sau khi được trang bị thiết bị hiện đại nhưng không phát huy hiệu quả, để “phơi rêu”.

Các dự án thành phần của Chương trình

Dự án 1: Bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông.

Dự án 2: Hiện đại hóa giáo dục nghề nghiệp để tăng quy mô và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực có kỹ năng.

Dự án 3: Tăng cường cơ sở vật chất cho các cơ sở giáo dục đại học; đầu tư nâng cấp, hiện đại hóa các cơ sở giáo dục đại học trọng điểm để ngang tầm khu vực và thế giới, có năng lực đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.

Dự án 4: Phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý cơ sở giáo dục, cán bộ quản lý giáo dục và người học trong bối cảnh chuyển đổi số, hội nhập quốc tế và đổi mới toàn diện GD-ĐT.

Dự án 5: Kiểm tra, giám sát, đánh giá, đào tạo, tập huấn tổ chức thực hiện Chương trình.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ