Nghệ thuật điêu khắc tượng nhà mồ Tây Nguyên

GD&TĐ - Tượng nhà mồ không chỉ biểu hiện nét tâm linh đặc trưng, mà còn là loại hình nghệ thuật điêu khắc mang ý nghĩa văn hóa cổ truyền độc đáo của các dân tộc thiểu số Tây Nguyên.

Tượng nhà mồ là nét văn hóa tâm linh đặc sắc ở Tây Nguyên.
Tượng nhà mồ là nét văn hóa tâm linh đặc sắc ở Tây Nguyên.

Tượng nhà mồ được các nghệ nhân chế tác ở thời điểm diễn ra lễ bỏ mả với mục đích phục vụ người đã khuất. Theo quan niệm tâm linh của đồng bào Tây Nguyên, từ một đứa trẻ sinh ra cho đến khi mất đi, phải trải qua các nghi lễ: Thổi tai, Cà răng căng tai, Trưởng thành.

Lúc lập gia đình thì làm lễ “Trao vòng”, khi già thì làm lễ “M’Pú”, lúc mất đi làm lễ “Atâu”. Cuối cùng khi muốn chia tay vĩnh viễn với người chết thì làm lễ “Pơ thi” - bỏ mả.

Bốn nhóm tượng nhà mồ

Bỏ mả là một trong những nghi lễ độc đáo nhất của người Tây Nguyên, thể hiện lối ứng xử tốt đẹp của người sống với người chết. Trong những ngày này, người sống ăn bữa cộng cảm cuối cùng với người chết, để rồi lưu luyến tiễn đưa linh hồn về thế giới bên kia.

Từ khi chôn cất đến khi làm lễ bỏ mả không quy định thời gian cụ thể, có khi chỉ một vài năm hoặc lâu hơn. Trước khi tiến hành lễ bỏ mả, mọi người phải chuẩn bị rất chu đáo: Trâu, bò, rượu, gạo... phục vụ buổi lễ. Bên cạnh đó, nghệ nhân cũng được mời đến để dựng nhà mồ và tạc tượng cho người chết.

Tất cả những gì người sống cúng cho người chết ngày bỏ mả đều trở thành tài sản của người đã khuất. Vì vậy, người sống sẽ tái hiện các sự vật, hoạt động đời thường qua các bức tượng nhà mồ để chia sẻ, bầu bạn với người đã khuất ở thế giới bên kia.

Nhiều năm khảo sát và nghiên cứu văn hóa – nghệ thuật tượng nhà mồ, nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng cho hay, công đoạn tạc tượng nhà mồ là một công việc quan trọng nhất trong lễ bỏ mả. Các tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer (Bana, Cơ Tu…) và người Jrai phổ biến tạc tượng nhà mồ qua nhiều thế hệ. Chỉ trừ nhóm Mnông (gồm Mnông, Mạ, K’Ho…) ở phía Nam Tây Nguyên không thấy có tượng nhà mồ. Đa số các tộc người còn lại có loại hình nghệ thuật điêu khắc dân gian này.

Tượng nhà mồ có nhiều loại hình với nội dung thể hiện khác nhau. Các nhà nghiên cứu cứu văn hóa chia làm 4 nhóm chính: Nhóm sinh tồn, nhớ thương, sinh hoạt và nhóm tượng thú vật. Nhóm tượng gỗ sinh tồn biểu hiện cặp nam nữ giao phối, tượng đàn bà chửa, nam nữ khoe bộ phận sinh dục… được thể hiện cách chân thực, tự nhiên của con người.

Nhóm tượng nhớ thương là tượng người ôm mặt khóc thường được đặt bốn góc của nhà mồ, thể hiện nỗi đau thương của người sống đối với người chết. Nhóm tượng sinh hoạt gồm con trai, con gái, người địu con, múa trống, giã gạo… thể hiện sinh hoạt hằng ngày mà họ vẫn làm. Cuối cùng là nhóm tượng thú vật, như khỉ, trâu, bò, rắn, hổ… được tạc ra và đặt xen kẽ vào nhóm tượng khác cũng cùng chung mục đích phục vụ người chết.

Độc đáo nghệ thuật tạc tượng

Tượng nhà mồ được xem như “người bạn” của người đã khuất.

Tượng nhà mồ được xem như “người bạn” của người đã khuất.

Nghệ nhân Rơ Châm Uek ở Chư Pah (Gia Lai) cho biết, tượng nhà mồ đều được chế tác bằng chất liệu gỗ và đa phần được để ngoài trời, nên người thợ phải chọn những loại gỗ tốt, chịu được sự khắc nghiệt của thời tiết. Do đó, các dân tộc ở Tây Nguyên thường dùng các loại gỗ cứng như: Cẩm lai, hương, gụ. Sau này khi gỗ quý khan hiếm thì những loại gỗ như: Mít, muồng, bồ kết, vông… được sử dụng thay thế, cộng thêm mỡ bôi bên ngoài bảo vệ bức tượng tồn tại lâu dài hơn.

Sau khi tìm được gỗ, nghệ nhân chặt gỗ ra từng khúc bằng rìu lớn, mãi sau này mới thay thế bằng cưa. Khúc gỗ phải có một đầu phẳng để khi tạc xong, tượng có thể đứng được. Nghệ nhân sẽ ước lượng chiều dài, độ tròn để xem khúc gỗ ấy có thể làm tượng gì cho phù hợp.

Nếu gỗ có đường vành thân to thì làm tượng kép, tượng đôi như: Mẹ địu con sau lưng, trước bụng, tượng mẹ cõng con trên vai, tượng đôi trai gái yêu nhau hay cha cõng con. Nếu gỗ có đường kính vành thân nhỏ thì làm tượng đơn. Nghệ nhân thường chọn những đoạn gỗ ngắn để làm tượng thú cho phù hợp.

Bước tiếp theo, nghệ nhân sẽ dùng rìu để vạt bỏ những phần gỗ thừa để tạo hình cho tượng gồm phần đầu, thân, đế. Lúc này, tượng mang hình dáng thô mộc với khối tròn và những nhát vạt thẳng, nhưng nhìn vào có thể thấy vóc dáng của tượng sắp thành hình. Từ lúc này, nghệ nhân mới dùng rìu nhỏ và dao để đục đẽo những nét tỉ mỉ trên thân tượng để tạo độ cong của tay chân và các tư thế.

Tượng nhà mồ có thể do một người trực tiếp làm hoặc một nhóm người (từ 2 đến 5 nghệ nhân) cùng thực hiện. Mỗi người được phân công đẽo chạm một nét, một bộ phận trên thân tượng. Công phu nhất là tạc các nét biểu cảm trên khuôn mặt, phần việc này được làm sau cùng, khi tư thế của tượng đã được định hình tương đối hoàn chỉnh.

Chỉ có những nghệ nhân tay nghề cao mới trực tiếp làm các chi tiết trên khuôn mặt. Sau khi đã xong về hình khối, đường nét chi tiết, nghệ nhân lại dùng rìu nhỏ để loại bỏ tất cả những phần gỗ thừa để tượng được trơn láng, tinh xảo hơn.

Thời gian tạc tượng ngắn nhất khoảng 3 - 5 ngày, hoặc lâu hơn tùy vào quy mô của tượng. Tạc tượng nhà mồ đòi hỏi quá trình lao động nghiêm túc và cần mẫn, nghệ nhân phải nhiều lần thực hành thì mới có thể tạo ra một bức tượng đẹp.

Tượng nhà mồ là nét văn hóa tâm linh đặc sắc ở Tây Nguyên. Thế nhưng, giới văn hóa lo ngại không biết nghệ thuật điêu khắc này sẽ còn tồn tại trong bao lâu, khi buôn làng Tây Nguyên ngày càng đổi thay.

Nhà phê bình mỹ thuật Phan Cẩm Thượng khẳng định, tượng nhà mồ không chỉ phản ánh nghệ thuật điêu khắc dân gian, mà còn truyền tải thông tin mang tính cộng đồng. Tượng nhà mồ ra đời từ thiên nhiên, để rồi hòa quyện vào đất trời. Những tượng này như mối dây liên kết, không mang lại cảm giác sợ hãi hay cách biệt mà tạo cho người sống cảm giác gần gũi và thân quen.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ

Cô Nguyễn Thị Thanh Vân, Trường THCS Nguyễn Chuyên Mỹ (An Lão, Hải Phòng) trong giờ dạy Khoa học tự nhiên.

Tiến triển trong dạy học môn tích hợp

GD&TĐ - Sau 3 năm triển khai, nhiều nhà trường khẳng định việc dạy học môn tích hợp, đặc biệt môn Khoa học tự nhiên đã có những tiến triển tích cực.
Học sinh hào hứng dưới sự chỉ dẫn của nghệ nhân.

Truyền dạy văn hoá Hrê trong trường học

GD&TĐ - Tại huyện miền núi Ba Tơ (tỉnh Quảng Ngãi) nhiều lớp dạy cồng chiêng, múa hát dân ca,… được tổ chức để truyền dạy cho thế hệ con em người Hrê.