Lý do Trung Quốc hành xử hung hăng trên Biển Đông

GS Huge White, chuyên ngành Nghiên cứu Chiến lược tại Đại học Quốc gia Australia, có bài trên tạp chí The Interpreter.

Tàu Trung Quốc xịt vòi rồng vào tàu Việt Nam - Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam
Tàu Trung Quốc xịt vòi rồng vào tàu Việt Nam - Ảnh: Cảnh sát biển Việt Nam

Tác giả đặt vấn đề: Nhiều người cảm thấy khó hiểu về lý do tại sao Trung Quốc lại hành xử hung hăng tại Biển Đông và biển Hoa Đông. Trung Quốc hy vọng sẽ đạt được gì với việc xa lánh các nước láng giềng và làm xói mòn sự ổn định tại khu vực?

Câu trả lời là: Trung Quốc đang cố gắng xây dựng cái mà Chủ tịch Tập Cận Bình gọi là “quan hệ nước lớn kiểu mới”. 

Để hiểu được tại sao đây lại là mục tiêu cho các hành động của Bắc Kinh, chúng ta cần phải hiểu được rằng theo “mô hình quan hệ kiểu mới" của mình, ông Tập muốn Trung Quốc có được nhiều quyền lực và tầm ảnh hưởng tại châu Á hơn so với những gì mà họ đã có trong vài thế kỷ trở lại đây. 

Đây rõ ràng là cuộc chơi bên được - bên mất giữa Trung Quốc và Mỹ. Đấy là những gì mà ông Tập và các quan chức Trung Quốc đang cố gắng đạt được.

Lý luận của họ tương đối đơn giản. Họ biết rằng vị trí của Mỹ tại châu Á được xây dựng dựa trên hệ thống mạng lưới liên minh và đối tác với một loạt các quốc gia láng giềng của Trung Quốc. Họ cho rằng việc làm suy yếu những mối quan hệ này sẽ là cách đơn giản nhất để khiến sức mạnh của Mỹ tại khu vực đi xuống. 

Họ cũng biết rằng, đằng sau những phát ngôn ngoại giao có cánh, nền tảng của những sợi dây liên minh và đối tác này là niềm tin của những người bạn châu Á của Mỹ rằng Mỹ có thể và sẵn sàng bảo vệ họ trước sức mạnh Trung Quốc.

Vậy cách dễ nhất để Bắc Kinh làm suy yếu quyền lực của Washington tại châu Á là làm xói mòn niềm tin của các quốc gia trong khu vực. 

Cách đơn giản nhất để làm điều này là Bắc Kinh sẽ gây khó dễ cho các đối tác và đồng minh của Mỹ tại khu vực trong những vấn đề mà lợi ích của Mỹ không ngay lập tức bị ảnh hưởng - ví dụ như vấn đề tranh chấp lãnh thổ mà trong đó Mỹ không có lợi ích trực tiếp.

Bằng việc sử dụng áp lực vũ trang một cách trực tiếp trong những tranh chấp này, Trung Quốc buộc các nước láng giềng phải trông cậy vào sự trợ giúp quân sự của Mỹ. 

Tuy nhiên, ngược lại, đây cũng là cách để khiến Mỹ không thật sự sẵn sàng trợ giúp cho những người bạn của mình, bởi trong trường hợp này, hoàn toàn có khả năng xảy ra một cuộc đụng độ trực tiếp giữa Mỹ và Trung Quốc.

Nói cách khác, bằng việc sử dụng lực lượng quân sự đối đầu với những người bạn của Mỹ, Trung Quốc buộc Mỹ phải lựa chọn giữa việc bỏ rơi bạn bè và đối đầu với Trung Quốc. Bắc Kinh đánh cược rằng khi phải đối mặt với sự lựa chọn này, Mỹ sẽ lùi bước và rời bỏ các đồng minh và bạn bè của mình. 

Điều này sẽ làm suy yếu các đồng minh và đối tác của Mỹ, xói mòn sức mạnh của Mỹ tại châu Á, và tăng cường sức mạnh của Trung Quốc. Quan điểm này giúp lý giải cho những hành động gần đây của Trung Quốc.

Kể từ khi Tổng thống Obama tuyên bố chiến lược “xoay trục”, Trung Quốc đã có những động thái tại bãi cạn Scarborough và đảo Senkaku/Điếu Ngư nhằm kiểm chứng xem liệu Mỹ có sẵn sàng trợ giúp các đồng minh của mình không. 

Cho đến tận trước chuyến công du tới châu Á của mình vào tháng trước, ông Obama tỏ ra khá hờ hững trước cam kết mà Mỹ đưa ra. Tuy nhiên, những phát ngôn đanh thép của ông tại Tokyo và Manila cho thấy Mỹ đã quay trở lại với lập trường cứng rắn trước đây.

Hiện tại, nhiều khả năng Trung Quốc sẽ kiểm chứng quyết tâm mới được khôi phục của Mỹ bằng việc gây áp lực tại Biển Đông, biển Hoa Đông hoặc các khu vực khác. 

Đó là những gì đang diễn ra tại vùng biển ngoài khơi Việt Nam. Đó là một lời thách thức dành cho ông Obama. Hãy chờ xem những gì mà Bắc Kinh sẽ làm với Manila và Tokyo trong thời gian tới.

Dĩ nhiên, cách làm này cũng có những rủi ro cho phía Trung Quốc. Bắc Kinh không muốn đối đầu với Mỹ, do đó họ phải tin vào giả định rằng Mỹ, thay vì dính líu vào xung đột với Bắc Kinh, sẽ chấp nhận nhượng bộ và bỏ mặc những người bạn của mình, ngay cả khi việc nhượng bộ sẽ làm suy yếu vị thế của Mỹ tại châu Á.

Có hai lý do được các nhà lãnh đạo Trung Quốc vin vào để đưa ra giả định này. 

Thứ nhất, họ cho rằng năng lực chống tiếp cận/phong tỏa của Trung Quốc không cho phép Mỹ giành chiến thắng một cách dễ dàng và nhanh chóng trong trường hợp xảy ra đụng độ trên biển tại khu vực Đông Á. 

Họ tin vào chính học thuyết không/hải chiến của người Mỹ, trong đó nói rằng Mỹ biết họ không thể chiếm ưu thế tại những vùng biển này nếu không tiến hành một loạt các đợt tấn công vũ bão vào lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, những đợt tấn công này rõ ràng sẽ gây ra nguy cơ leo thang nghiêm trọng có khả năng dẫn đến chiến tranh hạt nhân. 

Do đó, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tin rằng trong tính toán của Mỹ, cuộc chiến với Trung Quốc trong thời điểm hiện tại là một cuộc chiến mà Mỹ không dám chắc rằng họ sẽ giành được thắng lợi cũng như không thể nào lường trước được những hậu quả mà nó có thể gây ra. 

Thứ hai, Bắc Kinh cho rằng họ mới là bên thật sự muốn giành lấy quyền lực tại châu Á. Washington đương nhiên là muốn duy trì vai trò của mình tại châu Á. 

Tuy nhiên, Bắc Kinh thậm chí còn quyết tâm hơn trong việc giành lấy quyền lực từ tay Mỹ. Các hành vi của Trung Quốc cho thấy các nhà lãnh đạo của Bắc Kinh tin rằng Washington nhận thấy được sự không tương xứng trong quyết tâm của hai quốc gia. 

Đó là lý do người Trung Quốc tin rằng trong suy nghĩ của Mỹ, Trung Quốc sẽ không bao giờ là bên đầu tiên nhượng bộ khi có xung đột nổ ra.

Việc Trung Quốc suy nghĩ theo chiều hướng như vậy có vẻ là điều gây khá nhiều ngạc nhiên cho các quốc gia khác, trong đó có Mỹ. 

Chính sách của Mỹ với Trung Quốc, trong đó có chiến lược xoay trục, được xây dựng trên giả định ngược lại so với suy nghĩ của Trung Quốc. 

Đó là, Mỹ cho rằng Bắc Kinh không thật sự quyết liệt trong việc thách thức sự lãnh đạo của Mỹ tại châu Á bởi đơn giản nước này không sẵn sàng đón nhận một cuộc đối đầu với Mỹ, cuộc đối đầu mà theo tính toán của Bắc Kinh, họ sẽ nắm chắc phần thua, và do đó họ không muốn chấp nhận rủi ro này để đánh đổi lấy việc mở rộng vị thế của Trung Quốc tại châu Á.

Các hành vi khiêu khích ngày càng trắng trợn của Trung Quốc đối với những người bạn, đồng minh của Mỹ và các cam kết ngày càng rõ ràng hơn của Mỹ đối với những đối tác của mình cho thấy cả Washington và Bắc Kinh đều đang đẩy mạnh can dự vào khu vực. 

Cả hai đều cho rằng mình có thể làm như vậy mà không bị các tác động tiêu cực bởi họ tính toán rằng, bên còn lại sẽ nhượng bộ để tránh một cuộc đụng độ. 

Tuy nhiên, điều đáng buồn là cả hai bên có thể đang có những suy nghĩ sai lầm. Đã đến lúc cần phải thay đổi bản chất của cuộc chơi để ngăn chặn nguy cơ xảy ra thảm họa.

Năm 2012, Trung Quốc bắt đầu kiểm soát bãi cạn Scarborough, thách thức tuyên bố chủ quyền của Philippines đối với khu vực này. 

Năm 2013, Trung Quốc tuyên bố thành lập Vùng nhận dạng phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông, bao phủ quần đảo tranh chấp Senkaku/Điếu Ngư và chồng lấn với vùng ADIZ của Nhật Bản. 

Tháng 5/2014, Trung Quốc khẳng định tuyên bố chủ quyền phi lý của mình bằng việc ngang nhiên đặt giàn khoan Hải Dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp luật pháp quốc tế.

Theo Ankit Panda - Chuyên gia phân tích về ngoại giao khủng hoảng và an ninh quốc tế, chính sách công nghệ và địa chính trị tại Đại học Princeton (Mỹ), kết quả của những hành động trên và một số hành động khác, Trung Quốc giờ đây được coi là kẻ bắt nạt trong khu vực. 

Thay vì sử dụng các luận chứng pháp lý để xác định tuyên bố chủ quyền, Trung Quốc lại lặp đi lặp lại rằng đó là “vùng nước lịch sử”, cố tình diễn giải quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc trong phạm vi “đường 9 đoạn” đã có cách đây 2.000 năm, rõ ràng là việc làm vô căn cứ, một lập luận hết sức vô lý mà Trung Quốc vẫn cố tình bảo vệ. 

Mọi chứng cứ mà Bắc Kinh đưa ra nhằm thỏa mãn tham vọng lãnh thổ của mình chỉ là những “tin đồn” và sự “hoang tưởng”.

Một chiến thắng có ý nghĩa trong đời sống chính trị quốc tế là chiến thắng với danh dự, uy tín và ảnh hưởng. Trong năm 2003 và 2004, Trung Quốc đã đưa ra khái niệm về ""trỗi dậy hòa bình"" và ""phát triển hòa bình"" để trấn an thế giới về sự phát triển của mình, cam kết không trở thành bá quyền. 

Năm 2013, Trung Quốc giới thiệu chính sách ngoại giao láng giềng, theo đó, lãnh đạo Trung Quốc đề xuất sáng kiến con đường tơ lụa trên biển và đề nghị ký hiệp định láng giềng hữu nghị với ASEAN.

Tuy nhiên, với những hành động gây hấn và khiêu khích đặc biệt mạnh lên từ năm 2009 trở lại đây trên Biển Đông và cả biển Hoa Đông, Trung Quốc đã cho thế giới thấy khoảng cách ngày càng lớn giữa lời nói và hành động của mình và đưa ra một hình ảnh Trung Quốc ngày càng ưa sử dụng sức mạnh trong việc khẳng định chủ quyền dựa trên việc tạo ra những “thực tế mới” trên Biển Đông. 

Từ đó, trong con mắt của công luận quốc tế, Trung Quốc đã trở thành một nước ngày càng hung hăng, vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa an ninh, hòa bình và ổn định khu vực.

Khoảng cách giữa lời nói và hành động của Trung Quốc càng lớn thì lòng tin của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc càng giảm, Trung Quốc càng bị cô lập trong cộng đồng khu vực và quốc tế. Và khi niềm tin về sự "trỗi dậy hòa bình" của Trung Quốc càng thiếu cơ sở thì việc các nước trong khu vực tìm kiếm các biện pháp tài phán, xây dựng các mối quan hệ hợp tác quốc tế mới, thậm chí tăng cường khả năng tự vệ là điều cần thiết và hợp lý.

Điều này hoàn toàn đi ngược với lợi ích của Trung Quốc, cả về ngắn hạn và dài hạn, bởi vì nước lớn nào cũng phải tạo dựng một môi trường hòa bình và hợp tác ở khu vực địa lý kề cận với mình. 

Một môi trường như vậy không thể được tạo dựng bằng chính sách cường quyền và một chính sách cường quyền thì không thể giúp xây dựng các mối quan hệ bè bạn.

Ông Murat Ryszard - Thiếu tướng quân đội Ba Lan - cho rằng các hành động này của Trung Quốc đi ngược lại luật pháp quốc tế, các hành động như vậy phải được ngăn chặn bởi Liên Hiệp Quốc. 

Ông cũng thấy một thực tế là Trung Quốc cũng là một Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nên có trách nhiệm và nghĩa vụ đảm bảo an ninh, hòa bình trong khu vực và trên thế giới, nhưng hiện nay Trung Quốc đang làm điều ngược lại. 

Dường như Trung Quốc vẫn chưa có động thái gì gọi là lắng nghe mà ngược lại đã biện hộ và đưa ra những luận điệu ngược lại UNCLOS 1982 và vẫn tiếp tục leo thang gây hấn ở Biển Đông.

Kể từ khi Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines, những hành động của họ ở Biển Đông chứng tỏ rằng các nước trong khu vực và cả Nhật Bản không những tỏ ra quan ngại mà còn coi Bắc Kinh là một kẻ gây hấn và là mối đe dọa trong khu vực. 

Nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục cách hành xử như vậy ở các vùng biển trong khu vực châu Á, trước mắt, nước này có thể chỉ đạt được một số mục đích tầm thường của riêng mình, nhưng về lâu dài nó đang và sẽ hủy hoại niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với quốc gia đông dân nhất thế giới này. 

Vẫn chưa phải là quá muộn để giữ lại danh dự và uy tín của mình ở châu Á nếu Bắc Kinh hành xử có trách nhiệm hơn, tuân thủ luật pháp quốc tế và ngay lập tức rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam vô điều kiện.

Theo chinhphu.vn

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ